Ổn định vĩ mô, phát triển kinh tế trong thế giới bất định, phức tạp
Trong 9/2022, hoạt động kinh tế nước ta diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới đang đối mặt với nhiều thách thức, kinh tế bị thu hẹp, đầu tư, thương mại toàn cầu giảm sút. Các nền kinh tế hàng đầu đang đối mặt với nhiều khó khăn, tổng cầu suy giảm tác động lan toả đến hoạt động thương mại quốc tế Việt Nam.
Các rủi ro, bất ổn đan xen phức tạp buộc nhiều nền kinh tế phải đánh đổi giải pháp điều hành kinh tế vĩ mô. Lạm phát tiếp tục là rủi ro lớn nhất đối với nhiều nền kinh tế, giá năng lượng, lương thực tiềm ẩn nhiều nguy cơ biến động phức tạp, khó lường. Dấu hiệu suy thoái kinh tế toàn cầu ngày càng rõ nét. Tổ chức Thương mại Thế giới nhận định kinh tế thế giới đang chịu khủng hoảng đa tầng: xung đột Nga-Ukraine; biến đổi khí hậu; hậu quả của dịch COVID-19.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) và Ngân hàng Thế giới đáng giá tăng trưởng kinh tế toàn cầu đang chậm lại so với cách đây vài tháng và dự báo tăng từ 2,8-3% trong năm 2022 và tăng từ 1,7-2,4% vào năm sau. Kinh tế Mỹ và Trung Quốc gặp rủi ro. Theo dự báo của OECD, kinh tế Mỹ tăng 1,5% trong năm 2022 và 0,5% vào năm 2023. Kinh tế Trung Quốc có thể tăng 3,2% trong năm nay và 4,7% vào năm sau.
Kinh tế Việt Nam có độ mở lớn, sản xuất phụ thuộc khá nhiều vào nguồn và giá nguyên, nhiên vật liệu nhập khẩu, quy mô nền kinh tế khiêm tốn, sức chống chịu và khả năng cạnh tranh còn hạn chế. Chỉ một biến động nhỏ của thế giới có thể gây tác động lớn tới tình hình kinh tế -xã hội trong nước.
Bức tranh kinh tế có nhiều điểm sáng
Trong bối cảnh đó, kết quả 9 tháng năm 2022, tăng trưởng kinh tế nước ta đạt mức 8,83%, lạm phát bình quân được kiểm soát ở mức 2,73%, đảm bảo ổn định vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế là một thành công, được các tổ chức tài chính quốc tế đánh giá cao, với bức tranh kinh 9 tháng có nhiều điểm sáng.
Trong bức tranh tăng trưởng chung 8,83%, khu vực nông nghiệp và thuỷ sản tăng 2,99%, đảm bảo cung cấp đầy đủ nhu cầu lương thực thực phẩm của nền kinh tế với giá ổn định; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 9,44%; đặc biệt khu vực dịch vụ tăng 10,57%, là khu vực quan trọng quyết định mức tăng trưởng chung của nền kinh tế.
Trong 9 tháng đầu năm nay, việc điều hành linh hoạt, kịp thời giá các mặt hàng chiến lược là nền tảng trong kiểm soát lạm phát 9 tháng ở mức thấp trong bối cảnh thế giới đang đối mặt với khủng hoảng năng lượng, lương thực và giá thực phẩm tăng cao.
Cộng đồng doanh nghiệp năng động, linh hoạt, vượt qua khó khăn về thiếu nguyên, nhiên vật liệu, thiếu lao động, khó khăn về tài chính.
Nghị quyết số 128/ NQ- CP đã xoay chuyển cục diện phát triển KT-XH đất nước
Chính phủ luôn chủ động, linh hoạt, tạo điều kiện tốt nhất cho hoạt động sản xuất kinh doanh, khắc phục các điểm nghẽn và bất cập của nền kinh tế; điều hành hiệu quả, giữ vững ổn định vĩ mô, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh thế giới bất định.
Với tư duy đột phá, hành động khẩn trương, linh hoạt, đặt hiệu quả chỉ đạo lên trên hết, với sự đồng hành hiệu quả của Quốc hội, nhiều chính sách, giải pháp ban hành và triển khai thực hiện đúng thời điểm trong thời gian qua đã đưa nền kinh tế nước ta phục hồi nhanh.
Việc Chính phủ ban hành Nghị quyết số 128/ NQ- CP, ngày 11/10/ 2021 có ý nghĩa rất quan trọng trong chống dịch COVID-19 và phát triển kinh tế, đã xoay chuyển cục diện phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Nghị quyết 11/NQ-CP: Tạo niềm tin cho cộng đồng doanh nghiệp
Với phương châm chủ động nắm tình hình, bình tĩnh, tự tin, tỉnh táo xác định mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phù hợp trong điều hành kinh tế. Ngày 30/1/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế- xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khoá, tiền tệ hỗ trợ Chương trình.
Các gói hỗ trợ trong Chương trình được thiết kế phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế, khắc phục khó khăn cho khu vực doanh nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh và cuộc sống của người dân, đồng thời tạo động lực, nâng cao năng lực sản xuất của nền kinh tế, tạo niềm tin cho cộng đồng doanh nghiệp, cải thiện mạnh mẽ các điều kiện kinh doanh.
Trong điều hành, Chính phủ đã kịp thời phát hiện những bấp cập, đưa ra các giải pháp chỉ đạo tháo gỡ khó khăn. Trước thực tế giải ngân vốn đầu tư công chậm, ngày 15/9/2022, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 124/NQ-CP về các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công những tháng cuối năm 2022. Nghị quyết đã chỉ ra nguyên nhân chủ quan và khách quan, đồng thời đưa ra các giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công, thúc đẩy và tạo động lực tăng trưởng cho nền kinh tế.
Với tinh thần quyết liệt và khẩn trương, ngày 16/9/ 2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 15/CT-TTg về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng và bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế trong tình hình mới. Chỉ thị nêu rõ quan điểm, định hướng trong chỉ đạo điều hành kinh tế vĩ mô chủ động, linh hoạt, sáng tạo, kịp thời, hiệu quả, bảo đảm phù hợp với tình hình và yêu cầu thực tiễn.
Những con số biết nói
Với các chính sách, giải pháp và chỉ đạo của Chính phủ, sự nỗ lực, linh hoạt của cộng đồng doanh nghiệp, nền kinh tế phục hồi và phát triển được phản ánh qua chỉ số Nhà Quản trị Mua hàng (PMI) lĩnh vực sản xuất của Việt Nam đạt 52,7 điểm trong tháng 8, đánh dấu tháng thứ 11 liên tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh và tuyển dụng lao động, việc làm tăng trưởng tích cực.
Số lượng đơn đặt hàng mới cũng tăng nhanh cả từ khách hàng trong nước và nước ngoài trong khi số lượng hàng tồn kho giảm. Tốc độ tăng giá chi phí đầu vào chậm lại đáng kể, thấp nhất kể từ cuối năm 2019. Tâm lý và điều kiện kinh doanh tiếp tục được cải thiện khi đa số phiếu khảo sát cho rằng sản lượng sẽ tăng trong 12 tháng tới và kỳ vọng thị trường sẽ ổn định hơn.
Minh chứng cho điều kiện kinh doanh được cải thiện ở chỗ trong 9 tháng đầu năm 2022 cả nước đã có 112.791 doanh nghiệp thành lập mới, tăng 31,9% so với cùng kỳ năm 2021. Cùng với doanh nghiệp thành lập mới, trong 9 tháng đầu năm 2022 còn có 50.509 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong 9 tháng lên 163,3 nghìn doanh nghiệp.
Cộng đồng doanh nghiệp đã chủ động tìm kiếm các giải pháp vượt qua khó khăn về: giá xăng dầu, nguyên, nhiên vật liệu đầu vào, chi phí logistics tăng cao; tình trạng thiếu hụt lao động; khó khăn về vốn; thiếu hụt linh kiện; các rào cản pháp lý.
Tổng cầu trong nước của thị trường với gần 100 triệu dân đã hồi phục phản ánh qua tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 9 tháng đầu năm 2022 ước đạt 4.170,2 nghìn tỷ đồng, tăng 21% so với cùng kỳ năm trước, loại trừ yếu tố giá tăng 16,8%.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong 9 tháng đầu năm là điểm sáng của nền kinh tế trong bối cảnh đầu tư và thương mại quốc tế giảm sút. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam 9 tháng đầu năm 2022 ước tính đạt 15,43 tỷ USD, là số vốn thực hiện cao nhất của 9 tháng trong 5 năm qua, tăng 16,3% so với cùng kỳ năm trước; trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 12,05 tỷ USD, chiếm 78,1% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện.
Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài. Trong tổng số vốn đăng ký cấp mới của 9 tháng đạt 7,12 tỷ USD, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 4,87 tỷ USD, chiếm 68,4% tổng vốn đăng ký cấp mới.
Tính cả vốn đăng ký cấp mới và vốn đăng ký điều chỉnh của các dự án đã cấp phép từ các năm trước thì vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 11,4 tỷ USD, chiếm 73,7% tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm.
Vị thế kinh tế Việt Nam trong thương mại quốc tế được củng cố và khẳng định qua thành tích về kim ngạch xuất khẩu hàng hóa 9 tháng của năm sau luôn cao hơn năm trước.
Trong bối cảnh đại dịch làm đứt gãy chuỗi cung ứng, nhiều doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu gặp khó khăn về nguyên vật liệu đầu vào, thị trường tiêu thụ, nhưng kim ngạch xuất khẩu 9 tháng đạt 282,52 tỷ USD, tăng 17,3% so với cùng kỳ năm trước.
Trong 9 tháng có 32 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 92,8% tổng kim ngạch xuất khẩu; có 6 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 63,9%.
Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa 9 tháng ước đạt 276 tỷ USD, tăng 13% so với cùng kỳ năm trước; trong đó nhập khẩu tư liệu sản xuất chiếm 93,9% tổng kim ngạch nhập khẩu; có 42 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 92,3% tổng kim ngạch nhập khẩu; có 4 mặt hàng nhập khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 45,5%. Cán cân thương mại xuất siêu 6,52 tỷ USD.
Nhà đầu tư nước ngoài đang đặt niềm tin rất lớn vào môi trường đầu tư và vị thế kinh tế Việt Nam
Kết quả trong đầu tư trực tiếp nước ngoài và hoạt động xuất, nhập khẩu của nền kinh tế cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài đang đặt niềm tin rất lớn môi trường đầu tư, vị thế kinh tế của nước ta trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Cộng đồng thế giới đánh giá Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong thúc đẩy thương mại quốc tế và cam kết mở rộng đầu tư vào Việt Nam trong thời gian tới.
Những điểm sáng của về cải thiện môi trường kinh doanh, sản xuất, đầu tư và thương mại quốc tế trong 9 tháng đầu năm 2022 là minh chứng khi nhiều tổ chức quốc tế uy tín tiếp tục đánh giá tích cực về tình hình kinh tế của Việt Nam.
Cụ thể, Moody's nâng xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam từ Ba3 lên Ba2 với triển vọng "ổn định" là do năng lực kinh tế Việt Nam đang trở lên mạnh mẽ; chắc chắn về thể chế; sức mạnh tài chính được nâng lên.
Bên cạnh đó, Fitch xếp hạng BB với triển vọng "tích cực". Nikkei Asia nâng hạng chỉ số phục hồi COVID-19 của Việt Nam lên thứ 2 thế giới.
NHẬN DIỆN KHÓ KHĂN, THÁCH THỨC, BIẾN NGUY THÀNH CƠ CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ
Bên cạnh những điểm sáng tích cực, nền kinh tế Việt Nam cũng đang phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức ở phía trước.
Hệ luỵ của dịch COVID-19, khủng hoảng Nga-Ukraine, Fed và ngân hàng trung ương các nước liên tục tăng lãi suất với mức cao làm cho đồng USD tăng giá rất mạnh so với các đồng tiền khác trên thế giới, tác động tiêu cực đến tỷ giá, lãi suất, giá trị đồng tiền Việt Nam.
Điều này, đặc biệt tác động tiêu cực tới hoạt động thương mại quốc tế của nước ta với 70% kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa được thực hiện bằng đồng USD, các thị trường xuất khẩu lớn của nước ta có xu hướng bị thu hẹp, ảnh hưởng đến hoạt động xuất, nhập khẩu và sản xuất kinh doanh trong nước. Hiện nay, trên một số lĩnh vực, đơn hàng xuất khẩu giảm so với trước.
Bên cạnh đó, kinh tế nước ta phụ thuộc khá lớn vào nguyên, nhiên vật liệu nhập khẩu. Khi đồng USD tăng giá trong bối cảnh đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu tác động không nhỏ tới ổn định sản xuất và gia tăng tác động của lạm phát chi phí đẩy do nhập khẩu lạm phát đối với nền kinh tế.
Khu vực doanh nghiệp vẫn bị tổn thương nghiêm trọng
Mặc dù khu vực doanh nghiệp đông về số lượng, nhưng quy mô và tiềm lực không mạnh, sức chống chịu và khả năng cạnh tranh còn hạn chế. Trong 9 tháng đầu năm 2022 có 112,6 nghìn doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể và đã hoàn tất thủ tục giải thể. Trong đó có 62,5 nghìn doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh, tăng 38,7% so với cùng kỳ năm 2021; có 36,3 nghìn doanh nghiệp chờ làm thủ tục giải thể, tăng 12,1%; có 13,8 nghìn doanh nghiệp đã giải thể, tăng 8%.
Như vậy, bình quân một tháng có 18,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động thì có 12,5 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường. Nói cách khác, trong nền kinh tế cứ 10 doanh nghiệp gia nhập mới và quay trở lại thì có 7 doanh nghiệp tạm thời hoặc vĩnh viễn rút lui khỏi thị trường.
Điều này phản ánh khu vực doanh nghiệp vẫn bị tổn thương nghiêm trọng trước những khó khăn của kinh tế thế giới và trong nước.
Theo kết quả điều tra xu hướng kinh doanh quý 3/2022 của Tổng cục Thống kê, các doanh nghiệp ngành chế biến, chế tạo phản ánh số lượng đơn hàng mới; đơn hàng xuất khẩu mới; sử dụng lao động trong quý 3/2022 đều giảm so với quý 2/2022.
Điều tra xu hướng kinh doanh quý 3/2022 cho thấy tỷ lệ doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính chiếm 30,8%; thiếu nguyên nhiên vật liệu chiếm 26,1%; lãi suất vay vốn cao chiếm 23,5%; không tuyển được lao động theo yêu cầu chiếm 25,1%.
Mặc dù kim ngạch xuất khẩu đạt con số ấn tượng, tuy vậy kim ngạch xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước chỉ đạt 73,22 tỷ USD, chiếm 25,9% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Điều này phản ánh vị thế thương mại quốc tế của nước ta do khu vực FDI tạo nên. Kinh tế phụ trợ và liên kết giữa khu vực kinh tế trong nước với khu vực FDI còn yếu và lỏng lẻo.
Chi phí nguyên vật liệu, xăng dầu tăng gây nhiều khó khăn cho sản xuất, cạnh tranh
Kinh tế nước ta có độ mở lớn, sản xuất trong nước phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu nhập khẩu từ bên ngoài, với tỷ lệ chi phí nguyên vật liệu nhập khẩu trong tổng chi phí nguyên vật liệu của toàn nền kinh tế là 37%. Còn chi phí xăng dầu chiếm khoảng 3,52% trong tổng chi phí sản xuất của toàn nền kinh tế.
Khi giá xăng dầu thế giới tăng sẽ làm tăng giá nguyên vật liệu nhập khẩu, nguyên nhiên vật liệu trong nước, đặc biệt là giá xăng dầu tăng, gây nhiều khó khăn cho sản xuất và cạnh tranh tại thị trường trong nước và thế giới.
Do đứt gãy chuỗi cung ứng, hệ luỵ của các lệnh trừng phạt của Mỹ và phương Tây đối với Nga gây nên khủng hoảng năng lượng, giá nhiều mặt hàng thiết yếu cho sản xuất tăng cao ảnh hưởng trực tiếp và khá mạnh đến kinh tế Việt Nam.
Trong 9 tháng đầu năm 2022, chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất tăng 6,0% - mức tăng cao nhất trong 10 năm qua. Kết quả là chỉ số giá sản xuất (Chỉ số PPI) sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,21%; Chỉ số PPI sản phẩm công nghiệp tăng 4,71%; Chỉ số PPI dịch vụ tăng 3,34%; Chỉ số giá xuất khẩu hàng hoá tăng 8,31%; chỉ số giá nhập khẩu hàng hoá tăng 10,86%, trong đó giá nhập khẩu xăng dầu, sắt, thép tăng từ 30% đến trên 40%. Tỷ giá thương mại hàng hóa giảm 2,3%.
Điều này cho thấy giá hàng hoá và dịch vụ của tất cả các ngành trong nền kinh tế đã tăng, sẽ lan truyền sang giá tiêu dùng, tạo áp lực lạm phát trong thời gian tới, làm giảm hiệu quả hoạt động thương mại quốc tế của nước ta.
Giá xăng dầu trong nước 9 tháng đầu năm 2022 tăng 41,07% so với cùng kỳ năm trước, tác động tiêu cực tới hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt ảnh hưởng nghiêm trọng cho ngành vận tải, du lịch và khai thác thủy sản.
Dự báo giá dầu thô sẽ còn tiếp tục tăng trong vài năm tới do thiếu hụt đầu tư thượng nguồn trong khai thác dầu và nhu cầu tăng mạnh trong khi nguồn cung hạn chế, thị trường dầu thô sẽ trải qua thời kỳ thiếu hụt nguồn cung dài nhất trong nhiều thập kỷ qua.
Điều này đang gây nên cơn bão giá toàn cầu, tạo áp lực rất lớn về kiểm soát lạm phát đối với kinh tế nước ta, gây nhiều khó khăn cho các ngành và lĩnh vực; làm suy giảm tổng cầu, gây bất ổn vĩ mô và giảm tiến độ và hiệu quả của Chương trình Phục hồi và Phát triển KTXH.
Giải ngân vốn đầu tư công còn chậm
Vốn đầu tư công có tầm quan trọng trong xây dựng cơ sở hạ tầng, nâng cao năng lực của nền kinh tế, có tác động lan tỏa thu hút vốn đầu tư của khu vực ngoài nhà nước và khu vực FDI.
Đầu tư công đóng góp không nhỏ vào tăng trưởng kinh tế, nếu giải ngân vốn đầu tư công tăng thêm 1% so với năm trước sẽ làm GDP tăng thêm 0,058%. Đặc biệt trong bối cảnh tổng cầu thế giới suy giảm, ảnh hưởng tới xuất khẩu của Việt Nam, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công là giải pháp quan trọng và hiệu quả phục hồi tăng trưởng kinh tế bù đắp cho suy giảm xuất khẩu.
Trong 9 tháng đầu năm 2022, giải ngân vốn đầu tư công còn chậm. Bên cạnh bất cập về môi trường pháp lý và thể chế, có nhiều nguyên nhân chủ quan làm chậm tiến độ giải ngân vốn đầu tư công như: Giải phóng mặt bằng chậm; năng lực của chủ đầu tư, năng lực lập dự án, chủ đầu tư chưa chuẩn bị tốt để thực hiện đầu tư và năng lực nhà thầu còn hạn chế; công tác chỉ đạo, điều hành chưa quyết liệt.
Bên cạnh đó, có nhiều nguyên nhân khách quan đã làm chậm tiến độ giải ngân.
Trong 9 tháng đầu năm 2022, giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho xây dựng tăng 48,87% so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ lắp đặt hệ thống điện, hệ thống cấp thoát nước tăng 13,37%; sản phẩm gang, sắt, thép tăng 11,08%. Giá nguyên vật liệu xây dựng tăng cao, khiến nhiều nhà thầu có xu hướng thi công cầm chừng.
Mặt khác, đơn giá định mức quá lạc hậu, bất cập. Có những đơn giá nhà nước đưa ra chỉ bằng 30% so với giá thực tế thi công. Nhiều nhà thầu mạnh e ngại, không muốn nhận các gói đầu tư công, đây là một nghịch lý.
Thủ tục thanh quyết toán và các bước thực hiện thủ tục đầu tư vẫn rất cồng kềnh, chưa có cơ chế quy trách nhiệm cụ thể cho từng khu vực, từng công đoạn cũng là nguyên nhân và điểm nghẽn làm chậm tiến độ giải ngân vốn đầu tư công.
Vừa qua, một số tổ chức quốc tế đưa ra cảnh báo về một số khó khăn, thách thức trong thời gian tới đối với kinh tế Việt Nam, trong đó nhấn mạnh rủi ro kinh tế thế giới suy giảm sẽ ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu và cán cân thương mại.
Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) dự báo cán cân vãng lai của Việt Nam có thể thâm hụt 1,5% GDP trong năm 2022. Việc các nước quyết liệt thắt chặt chính sách tài khóa, tiền tệ cũng sẽ gia tăng rủi ro "nhập khẩu lạm phát", tác động đến tỷ giá và thị trường tài chính. Dự báo lạm phát Việt Nam ở mức 3,8% năm 2022, tiếp tục tăng lên mức 4% năm 2023.
Về các thách thức trong dài hạn, ADB đánh giá Việt Nam thuộc nhóm 32 nền kinh tế còn có "độ trễ" và dư địa lớn để cải thiện về môi trường kinh doanh và chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp số.
ADB đề xuất một số khuyến nghị đối với kinh tế Việt Nam trong các tháng cuối năm 2022 và 2023, bao gồm: Đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công trong bối cảnh xuất khẩu sẽ chịu ảnh hưởng mạnh và Việt Nam còn dư địa về tài khóa, tiền tệ; tiếp tục chủ động nâng cao năng lực thích ứng, ứng phó với yếu tố bên ngoài như khả năng dịch COVID-19 bùng phát trở lại; bám sát các diễn biến thị trường tài chính, trong đó chú trọng theo dõi, báo cáo về tình hình nợ xấu của các ngân hàng.
Trong khi đó, JICA đánh giá năng suất lao động của Việt Nam đã có sự cải thiện nhưng còn ở mức thấp, chỉ cao hơn Campuchia, Timor-Leste và Myanmar trong khu vực Đông Nam Á. JICA nhận định việc năng suất lao động có xu hướng đình trệ sẽ tạo rào cản lớn đối với người lao động tham gia thị trường việc làm 4.0 cũng như hạn chế tăng trưởng, phát triển của đất nước trong dài hạn.
Hiện nay, xu hướng phân mảnh của kinh tế thế giới đang được chính phủ và các tập đoàn đa quốc gia thảo luận, từ đó định hình chiến lược phát triển cho riêng mình. Xu hướng này sẽ gây tổn hại cho các quốc gia đang hưởng lợi từ hệ thống thương mại toàn cầu. Khi những xu hướng này diễn ra sẽ gây khó khăn và thách thức đối với kinh tế nước ta trong những năm tới.
Tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp là nhiệm vụ chính trị quan trọng của các cấp chính quyền
Kinh tế thế giới đang diễn ra trong sự biến động khó lường; không chắc chắn; phức tạp và mơ hồ. Kinh tế nước ta có độ mở lớn, dễ bị tổn thương từ các tác động tiêu cực của kinh tế thế giới, đặc biệt tác động từ các nền kinh tế là đối tác thương mại chủ yếu của Việt Nam. Trong thời gian tới, Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương cần tập trung thực hiện một số giải pháp.
Chính phủ cần tiếp tục khẳng định và thực thi quan điểm hỗ trợ tối đa cho doanh nghiệp phát triển; coi việc tháo gỡ các rào cản, khó khăn cho doanh nghiệp là nhiệm vụ chính trị quan trọng của các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương. Từ đó, các doanh nghiệp có đủ điều kiện trong chủ động thích ứng, phục hồi nhanh và phát triển bền vững.
Khẩn trương xây dựng chính sách và chuẩn bị các nguồn lực cần thiết triển khai các giải pháp dài hạn; hỗ trợ doanh nghiệp chủ động thích ứng với các biến động trong tương lai. Cùng đó, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, đón đầu các xu hướng kinh doanh và thị trường mới để có thể vươn lên, bắt kịp xu hướng phát triển của thế giới.
Đẩy mạnh Chương trình phục hồi và phát triển KTXH; có giải pháp đột phá về tín dụng cho doanh nghiệp
Bên cạnh đó, Chính phủ đẩy mạnh thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội, đặc biệt khai thông gói hỗ trợ lãi suất tín dụng 2%.
Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các ngân hàng thương mại phân bổ tín dụng được bổ sung vào những lĩnh vực phù hợp để doanh nghiệp có đủ vốn cho sản xuất và lưu thông hàng hóa của nền kinh tế.
Cùng với đó, Chính phủ có giải pháp đột phá về tín dụng cho doanh nghiệp. Bởi, vốn, tài chính là tiền đề, đóng vai trò quyết định cho doanh nghiệp hoạt động và phát triển. Việc bảo đảm nguồn vốn, tài chính cho doanh nghiệp từ nay đến cuối năm và các năm sau rất quan trọng.
Chính phủ cũng chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương khắc phục đứt gãy nguồn cung, đa dạng hóa đối tác, nhà cung cấp nguyên, nhiên, phụ liệu, linh kiện đầu vào đáp ứng đầy đủ nhu cầu sản xuất kinh doanh. Đồng thời, hỗ trợ doanh nghiệp đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, mở rộng thị trường trong nước.
Khẩn trương, nghiêm túc thực hiện Nghị quyết 124/NQ-CP
Thúc đẩy thực hiện giải ngân nhanh, hiệu quả vốn đầu tư công sẽ nâng cao năng lực, khả năng cạnh tranh, tạo động lực quan trọng cho tăng trưởng nhanh và bền vững trong thời gian tới của nền kinh tế.
Ngày 15/9/2022, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 124/NQ-CP về các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công những tháng cuối năm 2022.
Nghị quyết đã đưa ra các giải pháp và giao cụ thể cho các bộ, ngành thực hiện để tháo gỡ khó khăn vướng mắc về thể chế, cơ chế, chính sách; giải pháp tổ chức triển khai quyết liệt nhằm thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công.
Đặc biệt, Chính phủ đã chỉ đạo các địa phương thực hiện nghiêm việc kiểm soát giá, chất lượng nguyên vật liệu xây dựng phục vụ các dự án đầu tư công.
Chính phủ cần kiên quyết chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương khẩn trương, nghiêm túc thực hiện Nghị quyết quan trọng này.
Tiếp tục rà soát, tinh giản tối đa các thủ tục hành chính
Bên cạnh đó, Chính phủ cần điều chỉnh lại các định mức chưa hợp lý so với thiết kế, thi công hiện tại; hướng dẫn, kiểm tra công tố giá cả máy, giá nhân công của các địa phương phù hợp sát với mặt bằng giá thị trường và bổ sung ngay các định mức chuyên ngành vào hệ thống định mức xây dựng làm cơ sở áp dụng.
Chính phủ cần tiếp tục rà soát tinh giản tối đa các thủ tục hành chính, đặc biệt các thủ tục thanh quyết toán, các phần việc phát sinh bằng việc kiểm tra, giám sát chặt chẽ, có ghi địa chỉ chịu trách nhiệm trong công tác giải ngân.
Khẩn trương ban hành cơ chế bảo vệ quyền bình đẳng cho các nhà thầu xây dựng trong cơ chế hợp đồng, tránh tình trạng nợ đọng triền miên.
Đồng thời, Chính phủ có biện pháp xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, cản trở làm chậm tiến độ giao vốn, giải ngân vốn; xác định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm người đứng đầu trong trường hợp giải ngân chậm, gắn với đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Bộ Tài chính phối hợp chặt chẽ để thực hiện hài hoà chính sách tài khoá và tiền tệ. Chủ động và linh hoạt điều tiết thị trường tiền tệ, lãi suất và tỷ giá trong bối cảnh Ngân hàng Trung ương các nền kinh tế phát triển nâng lãi suất để kiểm soát lạm phát. Đảm bảo tính thanh khoản, hỗ trợ cho doanh nghiệp ổn định sản xuất và hỗ trợ xuất nhập khẩu của nền kinh tế.
Với tinh thần quyết tâm vượt khó, với nỗ lực chung của toàn xã hội, sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị. Chính phủ và các bộ ngành, địa phương luôn chủ động, linh hoạt, cùng đồng hành tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Cộng đồng doanh nghiệp luôn nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, vượt khó, nỗ lực thích ứng với hoàn cảnh khó khăn, chia sẻ đồng hành cùng đất nước, để duy trì sản xuất kinh doanh. Kinh tế nước ta sẽ hoàn thành toàn diện các mục tiêu kinh tế-xã hội của năm 2022, tạo thế và lực, tạo đà và niềm tin cho quá trình phát triển năm 2023 và hoàn thành các mục tiêu kế hoạch của giai đoạn 2021-2025./.
TS. Nguyễn Bích Lâm