Ngày 22/12, tại Nhà Quốc hội, dưới sự chủ trì của Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng, Ủy ban Pháp luật của Quốc hội tổ chức phiên giải trình về “Việc thực hiện yêu cầu của Luật Cư trú về hạn chế xuất trình giấy tờ, tài liệu xác nhận về cư trú và sử dụng thông tin về nơi cư trú là điều kiện để thực hiện thủ tục đất đai về hành chính, trọng tâm trong lĩnh vực hộ tịch, đất đai.”
Phát biểu khai mạc phiên giải trình, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng cho biết, Luật Cư trú năm 2020 đã được Quốc hội khóa XIV, Kỳ họp thứ 10 thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2021.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 38 của Luật Cư trú, Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ và cơ quan khác có liên quan có trách nhiệm “rà soát các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành có nội dung quy định liên quan đến Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú hoặc có yêu cầu xuất trình giấy tờ, tài liệu xác nhận về cư trú để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với quy định của Luật này, hạn chế việc sử dụng thông tin về nơi cư trú là điều kiện để thực hiện các thủ tục hành chính”.
Căn cứ chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, thực hiện Nghị quyết số 198/NQ-UBPL15 ngày 01/10/2021 của Ủy ban Pháp luật về Chương trình giám sát năm 2022, Ủy ban Pháp luật của Quốc hội tổ chức Phiên giải trình về “Việc thực hiện yêu cầu của Luật Cư trú về hạn chế xuất trình giấy tờ, tài liệu xác nhận về cư trú và sử dụng thông tin về nơi cư trú là điều kiện để thực hiện thủ tục hành chính, trọng tâm là trong lĩnh vực hộ tịch, đất đai”.
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng cho biết nhằm phục vụ hoạt động giải trình, Ủy ban Pháp luật đã ban hành Kế hoạch tổ chức Phiên giải trình chi tiết, xây dựng đề cương yêu cầu Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên và Môi trường, một số Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương báo cáo.
Đồng thời, Ủy ban Pháp luật đã tổ chức Đoàn công tác để khảo sát, làm việc trực tiếp tại 03 Bộ (Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên và Môi trường) và 04 tỉnh/thành (Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Thái Nguyên).
Thông qua hoạt động giải trình, Ủy ban Pháp luật sẽ có cơ sở xem xét, đánh giá tình hình thực hiện quy định của pháp luật về cư trú trong việc hạn chế yêu cầu xuất trình giấy tờ, tài liệu xác nhận về cư trú và sử dụng thông tin về nơi cư trú là điều kiện để thực hiện thủ tục hành chính (TTHC) trong bối cảnh ứng dụng công nghệ thông tin, vận hành các Cơ sở dữ liệu điện tử chuyên ngành kết nối với Cơ sở dữ liệu quốc gia dân cư (CSDLQGVDC); trách nhiệm của các cơ quan có liên quan.
Từ đó, đôn đốc việc thực hiện của các cơ quan và kiến nghị biện pháp để khắc phục các bất cập, hạn chế trong việc ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật về cư trú, góp phần đáp ứng yêu cầu đơn giản hóa TTHC, giấy tờ của công dân, tổ chức khi giải quyết công việc, nhất là trong lĩnh vực hộ tịch, đất đai tại các cơ quan nhà nước, bảo đảm quyền tự do cư trú và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân ngày càng tốt hơn.
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật nhấn mạnh, đến ngày 01/01/2023, theo quy định của Luật Cư trú thì Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú đã được cấp sẽ không còn giá trị thì việc Ủy ban Pháp luật tổ chức Phiên giải trình này là rất có ý nghĩa để đánh giá khả năng thực thi của quy định nêu trên và đề ra các giải pháp xử lý vướng mắc nếu có trên thực tiễn.
Bộ Công an đã cấp hơn 70,2 triệu thẻ căn cước công dân gắn chíp
Tại phiên giải trình, các đại biểu đã nghe đại diện lãnh đạo các Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên và Môi trường báo cáo.
Theo đó, để triển khai có hiệu quả các quy định của Luật Cư trú năm 2020, nhất là nội dung liên quan đến việc thực hiện yêu cầu của Luật Cư trú về hạn chế xuất trình giấy tờ, tài liệu xác nhận về cư trú và sử dụng thông tin về nơi cư trú là điều kiện để thực hiện thủ tục hành chính, Bộ Công an đã triển khai đồng bộ các nội dung.
Bộ Công an đã tổ chức thu thập, cập nhật hơn 100 triệu dữ liệu dân cư (dữ liệu đã được “làm sạch” hơn 96%); thực hiện cấp hơn 70,2 triệu thẻ căn cước công dân (CCCD) có gắn chíp.
Chính thức đưa vào vận hành khai thác Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư từ ngày 01/7/2021 và đã sẵn sàng kết nối, chia sẻ thông tin với các Cơ sở dữ liệu của các Bộ, ngành để phục vụ giải quyết các thủ tục hành chính liên quan đến thông tin công dân.
Bộ Công an đã tham mưu với Chính phủ giao các Bộ, cơ quan ngang Bộ và cơ quan khác có liên quan rà soát các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành có nội dung quy định liên quan đến sổ hộ khẩu, sổ tạm trú hoặc có yêu cầu xuất trình giấy tờ, tài liệu xác nhận về cư trú để sửa đổi, bổ sung hoặc đề xuất có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, ban hành mới cho phù hợp với quy định của Luật Cư trú năm 2020, hạn chế việc sử dụng thông tin về nơi cư trú là điều kiện để thực hiện các thủ tục hành chính.
Bộ Công an cũng đã ban hành Thông tư số 55/2021/TT-BCA ngày 15/5/2021 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Cư trú; trong đó, quy định, hướng dẫn cụ thể các trường hợp phải thu hồi sổ hộ khẩu, sổ tạm trú đã cấp bảo đảm phù hợp, thống nhất với quy định tại Điều 37 Luật Cư trú.
Rà soát các VBQPPL có liên quan đến sổ hộ khẩu, sổ tạm trú
Theo Bộ Công an, để thực hiện hiệu quả, thống nhất yêu cầu của Luật Cư trú về hạn chế xuất trình giấy tờ, tài liệu xác nhận về cư trú và sử dụng thông tin về nơi cư trú là điều kiện để thực hiện thủ tục hành chính, giao dịch dân sự thì điều kiện “tiên quyết” phải hoàn thành 02 nhiệm vụ trọng tâm.
Một là, rà soát các văn bản quy phạm pháp luật có nội dung quy định liên quan đến sổ hộ khẩu, sổ tạm trú hoặc có yêu cầu xuất trình giấy tờ, tài liệu xác nhận về cư trú để sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới cho phù hợp với quy định của Luật Cư trú năm 2020, hạn chế việc sử dụng thông tin về nơi cư trú là điều kiện để thực hiện các thủ tục hành chính.
Hai là, đẩy nhanh tiến độ xây dựng, hoàn thiện cơ sở dữ liệu chuyên ngành, hạ tầng về hệ thống đảm bảo an ninh, an toàn về thông tin để phối hợp với Bộ Công an triển khai thực hiện các giải pháp kết nối, chia sẻ, khai thác dữ liệu với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để ứng dụng giải quyết các thủ tục hành chính.
Pháp luật hộ tịch đã đi trước và sẵn sàng kết nối, chia sẻ dữ liệu
Liên quan đến lĩnh vực hộ tịch, theo Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Khánh Ngọc, pháp luật về hộ tịch đã đi trước và sẵn sàng cho việc kết nối, chia sẻ các dữ liệu, thông tin đã có trong các Cơ sở dữ liệu của Nhà nước để tạo thuận lợi cho người dân khi đi làm các thủ tục hành chính trong lĩnh vực hộ tịch, kể cả việc không yêu cầu xuất trình các giấy tờ chứng minh nơi cư trú.
Bộ Tư pháp đã chủ động xây dựng và hướng dẫn Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương tái cấu trúc quy trình thực hiện trực tuyến 3 dịch vụ công thiết yếu trong lĩnh vực hộ tịch: đăng ký khai sinh, kết hôn, khai tử theo hướng: Cho phép sử dụng dữ liệu công dân, bao gồm dữ liệu về cư trú trong Cơ sở dữ liệu về quốc gia về dân cư thay thế việc nộp/xuất trình thành phần hồ sơ là giấy tờ chứng minh nơi cư trú (không phải xuất trình giấy tờ, tài liệu xác nhận về cư trú mà cần khai thác thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư).
Đến nay, 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã triển khai thực hiện đăng ký khai sinh trực tuyến, 50/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã triển khai thực hiện đăng ký kết hôn trực tuyến, 55/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã triển khai thực hiện đăng ký khai tử trực tuyến.
Thực hiện các thủ tục đất đai liên quan đến Sổ hội khẩu, Sổ tạm trú như thế nào?
Đối với các thủ tục hành chính về đất đai thuộc thẩm quyền ban hành của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định việc nộp Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú hoặc có yêu cầu về giấy tờ, tài liệu xác nhận về cư trú đã được rà soát, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Lê Minh Ngân nêu rõ Bộ đã có phương án xử lý.
Trong đó, một số nội dung liên quan đã được xử lý tại Thông tư số 09/2021/TT-BTNMT ngày 30/6/2021 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường sửa đổi, bổ sung một số điều của các thông tư quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Đất đai.
Tại khoản 5 Điều 11 Thông tư số 09/2021/TT-BTNMT đã quy định: “Đối với trường hợp nộp hồ sơ thực hiện thủ tục đăng ký đất đai, tài sản gắn liền với đất, cấp Giấy chứng nhận mà có yêu cầu thành phần là bản sao Giấy chứng minh nhân dân hoặc Giấy chứng minh quân đội hoặc thẻ Căn cước công dân hoặc Sổ hộ khẩu hoặc giấy tờ khác chứng minh nhân thân thì cơ quan tiếp nhận hồ sơ sử dụng dữ liệu từ cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư mà không yêu cầu người nộp hồ sơ phải nộp các giấy tờ này để chứng minh nhân thân trong trường hợp dữ liệu quốc gia về dân cư được chia sẻ và kết nối với dữ liệu của các ngành, các lĩnh vực (trong đó có lĩnh vực đất đai)” để hạn chế xuất trình giấy tờ, tài liệu xác nhận về cư trú và sử dụng thông tin về nơi cư trú khi người sử dụng đất thực hiện thủ tục hành chính về đất đai theo quy định của Luật Cư trú, bảo đảm đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính theo chỉ đạo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Vẫn chưa hoàn thành cấp căn cước công dân; tỷ lệ sử dụng VNeID còn rất thấp
Tại phiên giải trình, các đại biểu ghi nhận và đánh giá cao sự tích cực phối hợp của các Bộ, ban, ngành trong việc tiếp thu, xử lý những kiến nghị, đề xuất liên quan đến việc thực hiện quy định của Luật Cư trú về hạn chế yêu cầu xuất trình giấy tờ, tài liệu xác nhận về cư trú và sử dụng thông tin về cư trú là điều kiện để thực hiện thủ tục hành chính như việc tiếp tục cấp số định danh công dân cho trẻ em ở Hà Nội, thống nhất quan điểm, cách thức đối soát dữ liệu…
Tuy nhiên, các đại biểu cũng bày tỏ băn khoăn về việc rà soát để sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật có quy định về giấy tờ, tài liệu xác nhận về cư trú và sử dụng thông tin về nơi cư trú là điều kiện để thực hiện thủ tục hành chính.
Cùng với đó là chất lượng dữ liệu, công tác số hóa dữ liệu; tiến độ chia sẻ, kết nối, ứng dụng thông tin giữa Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cưu với các cơ sở dữ liệu điện tử chuyên ngành còn chậm; việc kết nối, chia sẻ thông tin còn hạn chế.
Việc cấp Căn cước công dân chưa được hoàn thành, tỷ lệ người dân sử dụng ứng dụng VNeID, đăng ký và kích hoạt định danh điện tử còn rất thấp và các yếu tố bảo đảm khác cho công tác triển khai quy định của Luật Cư trú
Nhấn mạnh, đây là những thách thức không nhỏ trong việc thực hiện yêu cầu của Luật Cư trú nhất là khi thời điểm Sổ hộ khẩu giấy hết hiệu lực (ngày 01/01/2023) đang rất gần.
Do đó, các đại biểu đề nghị trên cơ sở phân tích, đánh giá những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân, các cơ quan trong phạm vi thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình khẩn trương, tích cực cùng phối hợp tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc.