Diễn đàn là cơ hội để cán bộ công đoàn, đoàn viên, công chức, viên chức, công nhân lao động phát huy vai trò và trách nhiệm của mình trong đề xuất, kiến nghị các giải pháp thúc đẩy tăng năng suất lao động quốc gia, góp phần phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Diễn đàn cũng là hoạt động quan trọng trong chuỗi các hoạt động sôi nổi, thiết thực được các cấp Công đoàn tổ chức trên khắp mọi miền đất nước trong Tháng Công nhân năm 2024 và hướng tới kỷ niệm 95 năm ngày thành lập Công đoàn Việt Nam (28/7/1929-28/7/2024).
Đến dự Diễn đàn, có đồng chí Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ; các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng: Đào Ngọc Dung, Bộ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội; Nguyễn Thúy Anh, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội của Quốc hội; Nguyễn Mạnh Hùng, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông; Nguyễn Kim Sơn, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo; Nguyễn Đình Khang, Chủ tịch Tổng LĐLĐ Việt Nam; Phạm Tất Thắng - Phó Trưởng ban Thường trực Ban Dân vận Trung ương; Trần Sỹ Thanh - Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội.
Cùng dự còn có các đồng chí lãnh đạo các Ban Xây dựng Đảng Trung ương; lãnh đạo Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; lãnh đạo Ủy ban của Quốc hội; lãnh đạo Văn phòng Chính phủ và các bộ, ngành, đoàn thể Trung ương; lãnh đạo một số địa phương lãnh đạo một số tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp, cơ sở giáo dục đại học, cơ sở đào tạo nghề.
Đặc biệt, dự Diễn đàn có 450 cán bộ, đoàn viên công đoàn, công chức, viên chức, trong đó có 95 công nhân lao động tiêu biểu về sức sáng tạo, năng suất cao được lựa chọn từ các ngành, địa phương, đơn vị trong cả nước
Phát biểu đề dẫn tại Diễn đàn, ông Nguyễn Đình Khang - Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Tổng LĐLĐ Việt Nam cho biết, thực hiện Thông báo số 77-TB/TW ngày 24/2/2012, kết luận của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc đồng ý tháng 5 hàng năm là Tháng Công nhân, từ năm 2016, các chương trình gặp gỡ, đối thoại, trao đổi giữa Thủ tướng Chính phủ với đoàn viên, công nhân, viên chức, lao động và các cấp công đoàn cả nước đã trở thành hoạt động thường niên nhằm thúc đẩy sự quan tâm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội giải quyết các vấn đề của công nhân, chăm lo xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện đại, lớn mạnh.
Tháng Công nhân cũng là dịp tuyên truyền sâu rộng vai trò, sứ mệnh và tiếp tục phát huy, khẳng định vị trí tiên phong, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước của giai cấp công nhân Việt Nam. Đây cũng là sự cụ thể hóa nội dung thực hiện Quy chế về mối quan hệ công tác giữa Chính phủ và Tổng LĐLĐ Việt Nam.
Trong những năm qua, Chính phủ và Tổng LĐLĐ Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ, triển khai có hiệu quả nhiều hoạt động, giải pháp nhằm giải quyết những vấn đề cấp thiết liên quan tới việc làm, thu nhập, đời sống, an ninh, an toàn của công nhân lao động; xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh; góp phần quan trọng vào thành tựu chung của đất nước.
Với quyết tâm thực hiện thắng lợi các Nghị quyết của Đảng, các chiến lược, chương trình, kế hoạch của Chính phủ, Tổng LĐLĐ Việt Nam đã xây dựng và triển khai Chương trình "Công đoàn Việt Nam đồng hành với Chính phủ nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và phát triển bền vững đất nước giai đoạn năm 2019-2023" đạt được nhiều kết quả tích cực.
Đứng trước yêu cầu hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu kinh tế -xã hội nhiệm kỳ 2021-2026 mà Đảng, Quốc hội, Chính phủ đặt ra, tiếp tục khẳng định vai trò đồng hành của Công đoàn với Chính phủ, nhân dịp Tháng Công nhân năm 2024 và hướng tới kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Công đoàn Việt Nam (28/7/1929-28/7/2024), Tổng LĐLĐVN tổ chức Diễn đàn với chủ đề "Nâng cao năng suất lao động quốc gia năm 2024" với mong muốn Diễn đàn là dịp để công nhân, viên chức, công chức, cán bộ công đoàn và các doanh nghiệp ở các vị trí khác nhau cùng trao đổi, bàn thảo, đánh giá về thực trạng năng suất lao động Việt Nam, nguyên nhân và điểm nghẽn" - ông Nguyễn Đình Khang cho hay.
Đặc biệt là các đề xuất, kiến nghị, hiến kế với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các giải pháp tiếp tục thúc đẩy nâng cao năng suất lao động chủ yếu từ giác độ người lao động. Diễn đàn kính mong nhận được sự chia sẻ, đánh giá và thông điệp được truyền đi từ Thủ tướng Chính phủ đến người lao động cả nước về vấn đề nâng cao năng suất lao động.
Theo Chủ tịch Tổng LĐLĐ Việt Nam, thời gian của Diễn đàn không dài, nhưng với tâm huyết, trách nhiệm đối với một vấn đề lớn của đất nước… Vì vậy, ông Nguyễn Đình Khang đã đề nghị các phát biểu đi thẳng vào vấn đề, tập trung cho các đề xuất giải pháp khả thi để nâng cao năng suất lao động trong từng lĩnh vực trao đổi.
Một số vấn đề về Năng suất lao động Việt Nam
TS. Nguyễn Tú Anh, Vụ trưởng, Ban Kinh tế Trung ương: Trong bài phát biểu này, tôi xin tập trung trả lời câu hỏi Năng suất lao động Việt Nam thực sự có thấp so với các nước trong khu vực hay không?
Năng suất lao động quốc gia là thước đo hoạt động kinh tế của một quốc gia, tính toán so sánh lượng giá trị gia tăng được tạo ra tính trên một đầu vào lao động. Theo nghĩa đó NSLĐ được tính bằng GDP chia cho số lao động có việc làm trong năm.
Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB) thì NSLĐ của Việt Nam năm 2022 tính bằng USD 2017 theo ngang giá sức mua PPP là 2.400 USD, chỉ bằng 11,4% so với Singapore, 35,4% so với Malaysia, 79% so với Indonesia…
Tuy nhiên, nếu nhìn con số này thì NSLĐ của chúng ta thấp, do cơ cấu nền kinh tế Việt Nam phần lớn lao động làm việc trong khu vực phi chính thức và hộ gia đình, số lượng lao động làm việc trong khu vực doanh nghiệp chỉ chiếm 29,2% lao động có việc làm trong năm 2022. Mặc dù vậy số lượng lao động này lại tạo ra khoảng 60% GDP cho cả nền kinh tế (khu vực tư nhân tạo ra khoảng 10%, khu vực doanh nghiệp FDI tạo ra khoảng 20,14% và khu vực doanh nghiệp nhà nước tạo ra khoảng 29% GDP). GDP của Việt Nam năm 2022 theo ngang giá sức mua PPP bằng đồng USD 2017 là 1.321.694,15 triệu USD. Như vậy với việc tạo ra 60% GDP năng suất lao động của các lao động trong doanh nghiệp Việt Nam sẽ tạo ra là 53.582 USD/lao động. Như vậy sẽ bằng 30% so với lao động của Singapore là làm việc tại doanh nghiệp hoặc cơ quan nhà nước. Với con số này thì NSLĐ của người lao động trong các doanh nghiệp Việt Nam sẽ bằng khoảng 30% NSLĐ của người lao động trong các doanh nghiệp Singapore. Mặc dù vậy, NSLĐ của Việt Nam khá là thấp.
Vì vậy, một trong những việc chúng ta cần làm để tăng NSLĐ trên góc nhìn vĩ mô thì cần phải đẩy nhanh phát triển nhiều hơn nữa hệ thống doanh nghiệp nhiều hơn mục tiêu 1,5 triệu doanh nghiệp vào năm 2025, mục tiêu quan trọng để thúc đẩy NSLĐ.
Tuy nhiên, chúng ta cũng phải nhìn kỹ hơn một chút đó là NSLĐ của khu vực doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam còn quá thấp. Các doanh nghiệp tư nhân tạo ra khoảng 59% việc làm trong khu vực doanh nghiệp nhưng chỉ đóng góp giá trị gia tăng bằng 1/6 của toàn bộ khu vực doanh nghiệp, nên NSLĐ trong khu vực doanh nghiệp tư nhân Việt Nam chỉ bằng 3,6% khu vực DNNN và 28,5% khu vực doanh nghiệp FDI (tính toán dựa trên số liệu GDP năm 2021 và tỉ lệ đóng góp vào GDP của các khu vực kinh tế năm 2021 không thay đổi đáng kể so với năm 2020).
Trong giai đoạn 2018-2022 mặc dù bị ảnh hưởng bởi COVID-19 nhưng năng suất lao động của Việt Nam vẫn tăng bình quân 7,06%/năm. Những ngành có NSLĐ cao vượt trội so với mức trung bình của cả nước lại có tỷ trọng lao động rất thấp trong tổng lao động, các ngành này chỉ chiếm 10,28% tổng số lao động có việc làm. Vì vậy, chúng ta thấy rằng có một dư địa rất lớn để dịch chuyển lao động từ khu vực NSLĐ thấp hơn sang khu vực NSLĐ cao hơn để tăng NSLĐ
Ví dụ như 66,5% lao động nằm trong các ngành có NSLĐ thấp hơn bình quân cả nước. Đặc biệt ngành Nông lâm thủy sản có NSLĐ chỉ bằng 39,73% NSLĐ bình quân cả nước nhưng có số lao động chiếm 27,54% tổng lao động có việc làm. Ngành bán buôn bán lẻ 15,6% nhưng NSLĐ chỉ bằng 57% mức bình quân cả nước… Như vậy chúng ta vẫn còn nhiều dư địa để tăng NSLĐ bằng việc dịch chuyển lao động từ khu vực dư thừa lao động, có NSLĐ thấp sang những ngành có NSLĐ cao hơn, đang thiếu lao…
TS. Nguyễn Tú Anh kiến nghị:
- Thứ nhất, tiếp tục thực hiện các giải pháp đồng bộ, cải thiện môi trường kinh doanh, tăng khả năng tiếp cận nguồn lực như đất đai, vốn, tri thức, lao động, giảm chi phí tuân thủ các thủ tục hành chính, nâng cao hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước để phát triển nhanh hơn số lượng doanh nghiệp mà tăng quy mô của doanh nghiệp. Phải thực hiện cho kỳ được mục tiêu 2 triệu doanh nghiêp đến năm 2030. Chỉ khi tỷ trọng lao động trong doanh nghiệp tăng lên thì NSLĐ mới tăng nhanh và bền vững vì các lý do: người lao động được chăm lo tốt hơn thông qua vai trò của các đoàn thể; người lao động cam kết lâu dài hơn, nên có động lực để nâng cao năng lực trình độ để tăng NSLĐ; doanh nghiệp có năng lực tốt hơn trong nâng cao trình độ quản lý, sản xuất, công nghệ để tăng NSLĐ.
- Thứ hai, trọng tâm của chính sách kinh tế trong giai đoạn 2021-2030 nên tập trung vào ngành chế biến chế tạo vì đây là khu vực động lực thúc đẩy NSLĐ cả nền kinh tế. Chỉ khi NSLĐ của ngành chế biến chế tạo tăng lên thì mới có thu nhập tăng thêm để chi tiêu cho ngành dịch vụ qua đó làm tăng NSLĐ ngành dịch vụ, hay nói cách khác NSLĐ ngành dịch vụ là phái sinh theo sau ngành chế biến chế tạo. Thúc đẩy NSLĐ ngành chế biến chế tạo cùng với mở rộng quy mô của ngành sẽ là động lực chính thúc đẩy NSLĐ trong cả nền kinh tế.
- Thứ ba thực hiện các giải pháp nâng cao NSLĐ nội ngành
+ Hỗ trợ hình thành nên các doanh nghiệp lớn, những sếu đầu đàn dựa trên tiềm lực hiện có của các doanh nghiệp hiện nay để dẫn dắt ngành phát triển theo một chuỗi cung ứng do doanh nghiệp Việt Nam làm chủ như ngành sản xuất ô tô, ngành điện tử, ngành công nghệ thông tin, ngân hàng, tài chính, chế biến nông lâm thủy sản, ngành thép,…Đặc biệt chú trọng mở rộng quy mô doanh nghiệp tư nhân, cải thiện NSLĐ doanh nghiệp tư nhân chính sẽ là cú huých lớn cho doanh nghiệp cả nước.
+ Thúc đẩy cụm liên kết ngành thông qua tích tụ các ngành gần nhau vào các KCN, KKT, hạn chế sự phân tán nhiều ngành khác nhau vào các KCN, KKT
- Thứ tư, thúc đẩy chuyển dịch lao động từ khu vực có NSLĐ thấp sang khu vực có NSLĐ cao, từ khu vực phi chính thức sang khu vực chính thức bằng các giải pháp: (i) Chăm lo tốt hơn cho cuộc sống người lao động bằng các chính sách nhà ở xã hội, hỗ trợ không phân biệt hộ khẩu cho con em công nhân lao động trong học tập, tiếp cận, dịch vụ y tế; (ii) nâng cao vai trò của Công đoàn để thực sự là chỗ dựa của người lao động trong việc ổn định cuộc sống nơi di cư đến; (iii) Xử lý hài hòa vấn đề quan hệ lao động, đảm bảo lợi ích chính đáng cho người lao động nhưng cũng đảm bảo lợi ích lâu dài cho nhà đầu tư; (iv) Nâng cao nhận thức cho người lao động về sự cần thiết phải học nghề, học kỹ năng lao động để có đủ điều kiện dịch chuyển lao động. Hiện nay số người học nghề khi bị thất nghiệp rất thấp (ví dụ trong năm 2023 trong 85 nghìn người nhận trợ cấp thất nghiệp chỉ có 778 người có ý định học nghề và 487 người thực sự học nghề).
- Thứ năm, thực hiện chính sách tiền lương hiệu quả, cùng với sự phát triển kinh tế cần điều chỉnh tăng lương tối thiểu hợp lý nhằm tạo sức ép doanh nghiệp đổi mới công nghệ, đồng thời người lao động có động lực nâng cao trình độ tay nghề (không nâng cao tay nghề có nguy cơ mất việc, thu nhập thấp). Trên thực tế nếu tiền lương được duy trì ở mức thấp sẽ tạo hiệu ứng ngược lại doanh nghiệp không có nhu cầu đổi mới công nghệ vì vẫn có thể khai thác tiền lương thấp với công nghệ cũ, người lao động không có động lực nâng cao tay nghề vì giá trị của việc nâng cao tay nghề không tương xứng. Ví dụ, Trung Quốc luôn chủ động nâng cao tiền lương tối thiểu từ 690 tệ năm 2006 lên 2600 tệ/tháng năm 2021 nhưng không làm giảm đầu tư mà ngược lại đầu tư tăng, NSLĐ tăng. Tuy nhiên nếu tăng tiền lương tối thiểu quá nhanh có thể làm chùn ý nhà đầu tư. Do đó trong vấn đề cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa chủ doanh nghiệp, công đoàn và cơ quan quản lý nhà nước để tạo ra lợi ích chung.
Chủ động, thường xuyên học tập nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp của người lao động
Chị Phùng Thị Hạnh - công nhân Xí nghiệp Sơ mi Hà Nội - Tổng Công ty May 10: Đến với Diễn đàn với tư cách là người công nhân trực tiếp sản xuất, tôi muốn chia sẻ suy nghĩ cá nhân về việc Chủ động, thường xuyên học tập nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp của người lao động, từng bước đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Tổng Công ty May 10 tiền thân là các xưởng may quân trang đặt tại chiến khu Việt Bắc được thành lập năm 1946, đã vinh dự được đón Bác Hồ về thăm, được Đảng và Nhà nước tặng nhiều phần thưởng cao quý, Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân, Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới. Hiện công ty có 18 đơn vị thành viên, hằng năm xuất khoảng 30 triệu sản phẩm quy chuẩn tới nhiều thị trường khó tính trên thế giới và trong nước, tạo được việc làm và thu nhập ổn định cho trên 12.000 lao động. Đến nay, May 10 luôn là điển hình tiêu biểu trong các doanh nghiệp may mặc Việt Nam.
Một trong những yếu tố tạo nên kết quả trên là do Tổng Công ty luôn xác định chủ động học tập nâng cao trình độ là một nhiệm vụ tiên quyết, xuyên suốt và liên tục, từ lãnh đạo, cán bộ quản lý đến nhân viên nghiệp vụ, công nhân như chúng tôi. May 10 đi được đến ngày hôm nay, trong bối cảnh ngành dệt may cạnh tranh gay gắt, là do bắt kịp mọi xu hướng, dẫn đầu mọi công nghệ, không ngừng học tập, không ngừng đổi mới.
Hôm nay, có mặt tại đây, tôi vô cùng tự hào và xúc động khi được báo cáo với Thủ tướng Chính phủ, các lãnh đạo Bộ, Ban, ngành vào đúng dịp 65 năm Bác Hồ về thăm May 10. Tôi nhớ, năm 2010, khi tròn 18 tuổi, bước chân vào May 10, tôi rất vui, nhưng cũng rất lo lắng và bỡ ngỡ. Là công nhân mới, chưa từng qua trường lớp đào tạo, tôi rất ngưỡng mộ các cô chú anh chị đi trước, tôi tự nhủ, nhất định mình sẽ phải làm được như thế và hơn thế. Tôi ý thức mình cần phải quan sát và học hỏi mỗi ngày, lúc nào cũng đau đáu suy nghĩ: Làm thế nào để tăng năng suất, làm thế nào để tay nghề ngày càng nhanh hơn?
Bước đầu, tôi học hỏi từ đồng nghiệp. Tranh thủ giờ nghỉ ca, tôi học từ các cô chú có thâm niên, chuyền nào có người giỏi, công đoạn nào có người làm tốt hơn là tôi học. Tôi học anh chị quản lý chuyền cách bố trí hàng, cách sắp xếp hàng hóa sao cho hợp lý và thuận tiện nhất, đúc rút ra kinh nghiệm cho mình và loại bỏ những thao tác thừa, giúp đẩy nhanh năng suất. Từ những ngày đầu được 200-300 sản phẩm, thì sau 5 tháng tôi đã may được 700-800 sản phẩm/ngày. Nhưng với tôi, như vậy vẫn chưa đủ, chưa hài lòng. Tôi luôn cảm thấy mình có thể làm được nhiều hơn thế, Vậy nên, tôi đã học cách kiểm soát thời gian với mục tiêu năng suất giờ sau phải tăng hơn giờ trước. Hơn một năm sau, tôi đã là người dẫn đầu về năng suất tại đơn vị với 1.400 sản phẩm/ngày, đạt 150% so với đồng nghiệp cùng công đoạn.
Không chỉ làm chủ công đoạn của mình, tôi đam mê học thêm những công đoạn khác để tay nghề của mình được nâng cao hơn và trở thành thợ điều động có thể làm được được bất kỳ vị trí nào trong dây chuyền sản xuất. Đặc biệt trong bối cảnh cách mạng công nghệ 4.0, những năm qua, May 10 đã đầu tư nhiều máy móc, thiết bị hiện đại, qua đó rút ngắn được thời gian sản xuất và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Nhiều thiết bị tự động được sử dụng hiệu quả như hệ thống chuyền treo giúp tăng 30% năng suất, hệ thống máy trải vải tự động, máy cắt tự động, máy lập trình, máy thùa đính tự động… giúp tăng năng suất từ 150% đến 200%. Tuy nhiên, để đạt được kết quả đó, người lao động chúng tôi phải chủ động tìm hiểu, đáp ứng và làm chủ được công nghệ mới.
Tôi còn may mắn khi được tham gia Hội thi thợ giỏi cấp Tổng Công ty và Hội thi thợ giỏi và Ngày hội lao động sáng tạo cấp ngành do Công đoàn Dệt May Việt Nam tổ chức. Mỗi một lần như vậy tôi háo hức chờ đợi, bởi tôi có thể học hỏi được nhiều cách làm hay, thao tác mới từ những người thợ giỏi nhất trên cả nước. Với quá trình học tập và rèn luyện không ngừng nghỉ, đến nay tôi luôn là công nhân đạt năng suất và thu nhập cao hàng đầu của Xí nghiệp với mức lương 15.000.000 đồng/tháng. Nhiều năm liền đạt lao động giỏi, đoàn viên Công đoàn xuất sắc, danh hiệu Chiến sĩ thi đua và Công nhân tiêu biểu.
Không chỉ giữ lại cho mình, tôi cũng chủ động chia sẻ, hướng dẫn và lan tỏa những cách làm hay mà bản thân đúc rút ra được cho bạn bè đồng nghiệp. Mọi người đều rất phấn khởi làm theo và cải thiện được năng suất. Tôi rất vui vì đã mang lại tinh thần tích cực cho mọi người cũng như được đóng góp vào thành tích chung của Tổng công ty. Đó chính là cách tôi thể hiện tình yêu, sự tri ân của mình đối với nơi mà tôi đã làm việc và gắn bó suốt những năm qua, cả những người đi trước đã truyền nghề cho tôi với tất cả sự kính trọng và tri ân sâu sắc.
Từ thực tế công việc của một người lao động trực tiếp, tôi suy nghĩ năng suất lao động nước ta còn có thể nâng cao nhiều hơn nữa, nếu từng doanh nghiệp, từng người lao động luôn nỗ lực hằng ngày. Mỗi công nhân, dù làm những công việc rất bình thường, nhưng phải có mục tiêu, khát vọng và cả lòng tự trọng. Phải thường xuyên học hỏi, trau dồi kỹ năng, tiếp cận, làm chủ khoa học công nghệ, hôm nay tốt hơn hôm qua và ngày mai tốt hơn hôm nay. Chỉ khi có nâng cao năng suất, chúng ta mới có cơ hội nâng cao thu nhập, giảm thời giờ làm việc để chăm sóc gia đình, con cái và tái tạo sức lao động.
Tại diễn đàn hôm nay, đại diện cho công nhân Dệt May, tôi xin có một số ý kiến đề xuất với Chính phủ và các bộ, ngành:
Một là, nghiên cứu ban hành chính sách hỗ trợ công tác đào tạo cho các doanh nghiệp sử dụng đông lao động, đặc biệt là lao động mới.
Hai là, từ thực tế hoạt động tại May 10, người lao động chúng tôi thấy rằng doanh nghiệp có trường mầm non, có trung tâm y tế, có trường cao đẳng nghề May 10 sẽ giúp cho người lao động có đủ điều kiện để phát triển bản thân, yên tâm công tác góp phần tăng năng suất lao động. Chúng tôi mong muốn Chính phủ có các chính sách để nhân rộng mô hình này cho các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ.
Nhân đây, chúng ta cùng xin nói lời tri ân công ty, đồng nghiệp và tổ chức Công đoàn luôn quan tâm, cổ vũ, tạo điều kiện và hỗ trợ cá nhân tôi trong phát triển nghề nghiệp.
Rèn luyện tác phong công nghiệp, nâng cao ý thức, kỷ luật lao động để có năng suất lao động
Anh Mai Thiên Ân, đoàn viên công đoàn cơ sở Công ty TNHH Intel Products Việt Nam, có trụ trở tại thành phố Hồ Chí Minh: Thực tế sản xuất, kinh doanh ở tất cả các doanh nghiệp trên thế giới đã chứng minh: Rèn luyện tác phong công nghiệp, nâng cao ý thức, kỷ luật lao động cho NLĐ là yếu tố quan trọng góp phần nâng cao năng suất lao động, nhất là trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đặt ra yêu cầu cao về chuyên môn hóa và tuân thủ quy trình đối với người lao động trong quá trình sản xuất. Doanh nghiệp muốn nâng cao chất lượng sản phẩm và thương hiệu đòi hỏi người lao động phải có trình độ học vấn, tay nghề, kỹ năng mềm và ý thức lao động tốt. Người lao động muốn nâng cao thu nhập cho bản thân phải có kỹ năng nghề nghiệp, thái độ, ý thức và tác phong tốt.
Tuy nhiên, thực tế hiện nay vẫn còn nhiều người lao động, đặc biệt là anh chị em công nhân, chưa thực sự quan tâm và đặt việc rèn luyện, nâng cao ý thức, tổ chức kỷ luật và tác phong công nghiệp lên hàng đầu. Một số vấn đề chung thường thấy là: Không tuân thủ các quy định về an toàn, vệ sinh lao động gây ra các chấn thương thậm chí tử vong; Không tuân thủ nội quy, giờ giấc, tác phong làm việc như đi trễ, về sớm, nghỉ giải lao không đúng thời gian quy định, có mặt ở cơ quan đúng giờ để điểm danh rồi ăn sáng, uống trà gây đình trệ công việc; xin nghỉ phép không có lý do chính đáng; phối hợp trong công việc kém; làm việc nhóm không hiệu quả; Không tuân thủ quy định kiểm soát: Lấy sản phẩm công ty để bán ra ngoài thị trường như trường hợp 1 doanh nghiệp ở phía Nam gây thiệt hại hàng trăm triệu đồng, ảnh hưởng uy tín công ty, thậm chí ảnh hưởng đến môi trường đầu tư, đến văn hóa và con người Việt Nam; Không tuân thủ quy trình sản xuất dẫn đến sản phẩm lỗi ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm, ảnh hưởng đến thương hiệu doanh nghiệp và lòng tin của đối tác.
Tôi cũng như bao công dân Việt Nam, mong muốn nước ta trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045, trong đó nâng cao năng suất lao động là động lực chính. Những năm qua, tại công ty chúng tôi, đã triển khai nhiều giải pháp rèn luyện tác phong công nghiệp, nâng cao ý thức, kỷ luật lao động của người lao động.
Mặc dù là công ty đa quốc gia, nhưng với nhân sự phần lớn là người Việt Nam, công ty Intel Products Việt Nam cũng gặp các vấn đề về như nêu ở trên tương tự những doanh nghiệp khác. Ban lãnh đạo và công đoàn đã phối hợp để thực hiện rèn luyện tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động cho nhân viên thông qua nhiều hoạt động:
Thứ nhất, tổ chức đào tạo và chia sẻ kiến thức về pháp luật, nội qui lao động, qui định của công ty cho người lao động: Công ty tổ chức đào tạo kiến thức về an toàn, vệ sinh lao động, Bộ Luật lao động, Luật Bảo hiểm xã hội, nghĩa vụ và phúc lợi của nhân viên và các quy định khác cho tất cả nhân viên hằng năm; Các buổi gặp mặt và đối thoại với người lao động được tổ chức hằng quý ở cấp độ cả công ty và hằng tháng ở từng phòng ban để lắng nghe các ý kiến đóng góp và phản hồi đầy đủ các ý kiến của người lao động; Quản lý chia sẻ và nhắc nhở các tình huống thực tế về tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động để giải thích cho người lao động hiểu và có thể áp dụng thực tế theo định kì hằng tuần hoặc hằng ngày; Ngoài ra công đoàn và công ty kết hợp Tổ chức các buổi học ngoại khóa về "thay đổi tư duy", "tác phong công nghiệp", "tính kỷ luật" các kỹ năng quan trọng khác cho người lao động để nâng cao tính "tự chủ bản thân".
Việc ưu tiên đào tạo là để nâng cao hiểu biết từ đó giúp họ nhận thấy những lợi ích từ việc tuân thủ kỷ luật và xây dựng ý thức tự chấp hành cho nhân viên.
Thứ hai, Tuyên truyền và tuyên dương khen thưởng: Tổ chức các buổi tuyên truyền thường xuyên với các hoạt động trò chơi và phần thưởng để người lao động hiểu rõ hơn về các qui định; Xây dựng các giải thưởng để khen thưởng và tuyên dương công khai các hành vi tốt như giải "Ngôi sao an toàn", "Ngôi sao chất lượng" …
Thứ ba, xây dựng các quy trình hỗ trợ và hệ thống kiểm soát: Xây dựng nội qui lao động rõ ràng và được lưu trữ trên trang Intranet nội bộ, nơi mà người lao động luôn có thể tìm thấy dễ dàng; Quản lý được yêu cầu phải gương mẫu. Intel xây dựng quy trình và công cụ phản hồi ẩn danh để nhân viên đánh giá sự gương mẫu của quản lý; Tổ chức bộ phận kiểm soát để thường xuyên rà soát và báo cáo hoạt động tuân thủ quy trình kiểm soát.
Với các hoạt động như trên, công ty giúp nâng cao việc tuân thủ kỷ luật của người lao động, không có sự cố an toàn lao động, giảm 80% sự cố chất lượng, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp và tăng mức độ hài lòng của nhân viên.
Tại Diễn đàn trọng thể này, tôi xin trân trọng gửi tới các đồng chí lãnh đạo một số đề xuất, kiến nghị:
Thứ nhất, có thêm các hình thức giảng dạy, trang bị tác phong công nghiệp cho người lao động từ từ sớm để trở thành "thói quen, nếp nghĩ, nếp làm" khi còn ngồi trên ghế nhà trường, xem xét định hướng ở các cấp bậc phù hợp, ví dụ như học cơ bản từ cấp Trung học phổ thông cho đối tượng lao động phổ thông, học nâng cao cho các cấp bậc Trung cấp, cao đẳng, đại học và xem xét nội dung học phù hợp với ngành nghề họ đang theo học, vì mỗi nghề nghiệp khác nhau cũng cần có tác phong công nghiệp khác nhau.
Thứ hai, quy chế tài chính cho phép công đoàn cơ sở có đủ nguồn lực trong việc đầu tư/chi tiêu cho các hoạt động đào tạo, tuyên truyền, khen thưởng về tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động.
Công đoàn phối hợp với người sử dụng LĐ trong việc tổ chức phong trào thi tay nghề, thi thợ giỏi, ôn lý thuyết, luyện tay nghề trong công nhân lao động, góp phần nâng cao năng suất lao động
Ông Nguyễn Đình Thắng, Chủ tịch Công đoàn các KCN Hà Nội: Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh "Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua và những người thi đua là những người yêu nước nhất", trong những năm qua Công đoàn các khu công nghiệp và chế xuất Hà Nội đã tổ chức phát động các phong trào thi đua yêu nước trong CNLĐ như phong trào thi đua "Lao động giỏi", "Lao động sáng tạo", "Xanh - sạch - đẹp, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động", phấn đấu đạt danh hiệu "Công nhân giỏi", "Sáng kiến sáng tạo" Thủ đô... đặc biệt là phong trào thi đua "Ôn lý thuyết, luyện tay nghề, thi thợ giỏi" do Tổng LĐLĐ Việt Nam và LĐLĐ thành phố Hà Nội khởi sướng và phát động, đã thu hút đông đảo CNLĐ, NSDLĐ tích cực hưởng ứng tham gia, đem lại hiệu quả thiết thực, góp phần nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và xây dựng đội ngũ CNLĐ có trình độ tay nghề cao, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa, góp phần thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Hưởng ứng phong trào thi đua do Công đoàn các khu công nghiệp và chế xuất Hà Nội phát động, CĐCS đã chủ động phối hợp với NSDLĐ tổ chức Hội thi ôn lý thuyết, luyện tay nghề, thi thợ giỏi, hội thi bàn tay vàng đem lại hiệu quả thiết thực, tiêu biểu như: Hội thi Casting, Hội thi Glazing của Công ty TNHH Toto Việt Nam; Hội thi Kỹ năng đo đạc, hội thi kỹ năng lắp ráp máy in văn phòng của Công ty TNHH Canon Việt Nam; Hội thi kỹ năng lắp ráp, Hội thi kỹ năng chất lượng của Công ty TNHH Denso Việt Nam... với hàng ngàn kỹ sư, công nhân tham dự. CNLĐ rất háo hức mong chờ Hội thi thợ giỏi để được học tập, trao đổi kinh nghiệm, nâng cao tay nghề và lan tỏa đến CNLĐ trong các doanh nghiệp, qua đó xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu hội công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần tạo thêm việc làm, nâng cao thu nhập cho CNLĐ.
Ở cấp khu, hằng năm, chúng tôi phối hợp với Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội tổ chức Hội thi thợ giỏi, với sự ủng hộ, tham dự, cổ vũ của rất nhiều chủ doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp Nhật Bản, đồng thời chọn cử thí sinh tham gia hội thi thợ giỏi thành phố Hà Nội và đạt giải cao tại hội thi. Tiêu biểu như năm 2023, chọn cử 158 thí sinh tham gia 10/11 nghề tại Hội thi thợ giỏi Thành phố. Kết quả 51 thí sinh đạt giải, trong đó 8/10 nghề đạt giải Nhất, 10 giải Nhì, 14 giải Ba, 19 giải khuyến khích. Các doanh nghiệp chọn cử CNLĐ tham gia hội thi thợ giỏi trong tập đoàn trên toàn thế giới và tham dự kỳ thi đạt chuẩn kỹ năng nghề quốc gia, quốc tế...
Phong trào thi đua "Ôn lý thuyết, luyện tay nghề, thi thợ giỏi" trong CNLĐ, đã khẳng định thi đua là động lực hết sức quan trọng để khơi dậy tinh thần lao động sáng tạo, ý thức trách nhiệm, dám nghĩ, dám làm, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, đặt biệt là tăng năng suất lao động, giảm hàng lỗi, hàng hỏng, cải tiến mẫu mã, giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn, ổn định, phát triển SXKD. Đây cũng là cơ hội để công đoàn khẳng định sự sáng tạo đổi mới về nội dung, phương thức trong hoạt động, nhận được sự ủng hộ của người sử dụng lao động và sự hưởng ứng của người lao động.
Trong thời gian tới, để phong trào thi đua "Ôn lý thuyết, luyện tay nghề, thi thợ giỏi" trong CNLĐ mang lại hiệu quả thiết thực và có sức lan toả rộng lớn hơn nữa, tôi đề nghị: Cần duy trì và mở rộng Hội thi thợ giỏi ở các tỉnh, thành phố nơi có đông CNLĐ với sự tham gia của chính quyền và NSDLĐ. Các doanh nghiệp cần quan tâm đầu tư hơn nữa về thời gian, cơ sở vật chất, kinh phí để tổ chức các hội thi thợ giỏi nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.
Mỗi người lao động phải không ngừng phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật để có năng suất lao động cao
Bà Trương Thị Thu Hà, Công ty Cổ phần Lọc hóa dầu Bình Sơn (BSR), Tập đoàn Dầu khí Việt Nam: BSR đã có 26 năm xây dựng và phát triển, phong trào phát huy sáng tạo tại BSR được hình thành ngay từ khi Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam phát động Phong trào thi đua liên kết xây dựng Nhà máy lọc dầu Dung Quất. Từ nền tảng tạo dựng phong trào thi đua bền vững đó, với mỗi ý tưởng, mỗi sáng kiến của người lao động đã góp phần đưa nhà máy đi vào hoạt động thương mại với sự an toàn, ổn định và phát triển cho đến nay.
Được làm việc tại doanh nghiệp có máy móc, trang thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến, mỗi người lao động BSR luôn đặt cho mình mục tiêu cao hơn, luôn học hỏi, nghiên cứu sáng tạo, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, tối ưu hóa trong từng công việc. Bằng tất cả tinh thần và trách nhiệm làm việc tận tâm, cùng nhau suy nghĩ để biến thách thức thành cơ hội, thực hành tiết kiệm, mỗi người lao động BSR đã và đang nuôi dưỡng đam mê lao động sáng tạo, cống hiến không ngừng, mang đến hiệu quả mọi mặt cho Công ty, góp phần nâng cao năng suất lao động, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Trưởng thành từ phong trào lao động này, nhiều công nhân trực tiếp sản xuất đã vươn lên đã trở thành những cán bộ kỹ thuật lãnh đạo quản lý tại đơn vị. Bằng việc đưa yếu tố "sáng tạo" vào hệ giá trị cốt lõi, trên nền tảng của tổng hòa 5 giá trị cốt lõi của BSR: Chính trực, chuyên nghiệp, đoàn kết, sáng tạo, hiệu quả và nền tảng văn hóa Petrovietnam, sự gương mẫu, đi đầu của những người lao động, BSR đã hình thành nên văn hóa làm việc hiệu quả, mà sáng tạo của mỗi người lao động là trụ cột hết sức quan trọng. Hoạt động sáng kiến cải tiến đã thật sự là đòn bẩy mà qua đó mỗi người lao động có thể phát huy mọi tiềm năng bản thân, bứt phá bằng trí tuệ, bản lĩnh của mỗi người để tham gia thúc đẩy sự phát triển sản xuất, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và là động lực phát triển BSR với"Khát vọng tiên phong" trên chặng đường mới.
Kết quả từ "Chương trình 01 triệu sáng kiến - nỗ lực vượt khó, sáng tạo, quyết tâm chiến thắng đại dịch COVID-19" do Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam phát động từ 3/2021- 9/2023, BSR đã về đích với 1.417 Sáng kiến, đạt tỷ lệ hơn 730% của 2 giai đoạn Chương trình với giá trị làm lợi khoảng 700 tỷ đồng trong năm đầu áp dụng. Trong đó có 2 giải pháp có giá trị làm lợi trên 30 tỷ đồng và nhiều giải pháp có giá trị làm lợi từ 5 – 20 tỷ đồng.
Tính đến nay, người lao động BSR đã đóng góp hơn 1.000 ý tưởng khả thi để áp dụng vào thực tế và gần 500 cải tiến thành công đang được áp dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh, gần 50 sáng kiến đạt giải cấp Tập đoàn, hơn 50 sáng kiến đoạt giải tại Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật tỉnh Quảng Ngãi và đã đạt 17 giải thưởng tại cuộc thi sáng tạo Khoa học công nghệ Việt Nam, Hội thi sáng tạo kỹ thuật toàn quốc, có 7 giải pháp được ghi vào dấu ấn Sách vàng sáng tạo Việt Nam và 5 Giải thưởng SIFF - Quốc tế. Kết quả này đã thể hiện rõ sự đồng lòng, quyết tâm nỗ lực của người lao động BSR đam mê sáng tạo, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, nghiên cứu khoa học và là điểm sáng trong toàn ngành.
Tính đến nay, BSR đang tích lũy được hơn 45 triệu giờ công an toàn không có tai nạn làm mất ngày công lao động, con số này vừa là niềm tự hào vừa là động lực để mỗi người lao động phải có trách nhiệm giữ gìn, bảo vệ và tiếp tục lập các dấu mốc an toàn mới trong tương lai. Rất nhiều sáng kiến cải tiến hay của người lao động về vận hành sản xuất đã góp phần tạo giá trị gia tăng mới trong ngắn hạn và dài hạn.
Kết quả trên đạt được hội tụ nhiều yếu tố, nhưng trước hết phải kể đến sự quan tâm của cấp ủy, sự gương mẫu đi đầu và chỉ đạo quyết liệt của các đồng chí lãnh đạo công ty và sự tham gia tích cực của công đoàn; chính sách dành cho đội ngũ đam mê sáng tạo và sự vinh danh đúng lúc, đúng thành tích của chuyên môn và công đoàn; sự phối hợp giữa các đơn vị và phương pháp lãnh đạo nhóm. Thi đua và sáng tạo vì thế đã trở thành thói quen và sức sống vượt bậc trong mỗi người lao động BSR.
Nhân đây, tôi cũng xin kiến nghị đến Bộ Khoa học và Công nghệ xem xét, có thông tư hướng dẫn chi tiết về việc chi trả thù lao cho Tác giả/đồng tác giả của sáng kiến cải tiến được công nhận. Đây là sự ghi nhận, tạo động lực rất lớn cho người lao động đam mê nghiên cứu khoa học.
BSR cũng như các doanh nghiệp hy vọng sẽ tiếp tục tiếp lửa, tạo thêm động lực để làm giàu thêm tình yêu của người lao động dành cho Nhà máy/Công ty, làm mạnh mẽ thêm tinh thần và ý chí quyết tâm tự lực, tự cường vượt qua khó khăn, thử thách của người lao động Việt Nam để biến thách thức thành cơ hội, bằng giá trị lao động của mỗi NLĐ được kết tinh qua hiệu suất, hiệu quả từ công việc mang lại, từ sản phẩm mới của từng sáng kiến, từng đề tài nghiên cứu khoa học, để tiếp tục khẳng định giá trị, bản lĩnh, trí tuệ, bản sắc văn hóa của người thợ Lọc dầu BSR nói riêng, và người Dầu khí nói chung, đóng góp vào lợi ích chung của xã hội, góp phần tăng sức mạnh của nền kinh tế Việt Nam.
Môi trường lao động an toàn, dân chủ, văn hóa doanh nghiệp phát triển, góp phần tăng năng suất lao động
Ông Phan Tuấn Anh, Chủ tịch Công đoàn Công ty Honda Việt Nam: Với các công ty Nhật Bản nói chung và đặc biệt tại Công ty HonDa, việc xây dựng môi trường làm việc an toàn, dân chủ, văn hóa doanh nghiệp là nền tảng cơ bản đảm bảo tăng năng suất lao động góp phần tạo nên một môi trường làm việc mơ ước cho nhân viên và trở thành một "Công ty được xã hội mong đợi". Từ thành công của công ty HonDa Việt Nam, tôi xin báo cáo một số hoạt động điển hình, trong đó có vai trò tham gia tích cực của công đoàn. Chúng tôi thường ví: Công đoàn và công ty như 2 bánh xe trên cùng một trục, nếu 2 bên không cùng quay thì chắc chắn tổ chức đó không đi đến đâu cả.
Về môi trường làm việc an toàn: Với chính sách "Không an toàn, không sản xuất", công ty đã thành lập phòng, ủy ban an toàn và triển khai theo tiêu chuẩn ISO 45001. Đặc biệt, công đoàn phối hợp cử người tham gia Hội đồng an toàn, tham gia xây dựng chính sách, chiến lược, nội quy, kế hoạch an toàn hàng năm; bổ sung các tiêu chí để bầu các tổ trưởng công đoàn là người có kiến thức, kinh nghiệm, uy tín làm an toàn vệ sinh viên; tham gia xây dựng, ban hành các chính sách chăm sóc sức khỏe người lao động như: Tiêm vacxin phòng bệnh, cấp phát vitamin bổ sung năng lượng sức đề kháng, phòng vắt trữ sữa, lắp điều hòa tại xưởng sản xuất; ngoài việc kiểm tra, giam sát công đoàn còn đẩy mạnh tuyên truyền, vận động đoàn viên và người lao động nỗ lực tham gia hoạt động 5S, Kaizen để góp phần xây dựng môi trường làm việc Xanh – Sạch - Đẹp.
Từ những nỗ lực nêu trên, kết quả là sức khỏe của người lao động được bảo vệ, không có tai nạn, sự cố, bệnh nghề nghiệp. Người lao động yên tâm làm việc, phát triển chuyên môn, từ đó hiệu suất làm việc, năng suất lao động được nâng cao.
Về dân chủ trong doanh nghiệp, quy chế dân chủ sau khi được công đoàn góp ý đã được ban hành và được triển khai thực hiện tốt, những đề xuất kiến nghị, quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người lao động được người sử dụng lao động giải quyết kịp thời, thỏa đáng, công khai, minh bạch, là một trong những nhân tố tạo niềm tin, từ đó thúc đẩy người lao động làm việc tốt hơn, thúc đẩy năng suất lao động cao hơn. Người lao động được đưa ra sáng kiến, ý kiến, ý tưởng của bản thân; đưa ra đề xuất, kiến nghị, giải pháp để thực hiện tốt hơn nhiệm vụ được giao thì được công ty ghi nhận, khen thưởng. Khi được doanh nghiệp tôn trọng, người lao động sẽ tự tin, mong muốn được cống hiến, làm việc với hiệu suất cao hơn. Đặc biệt, môi trường làm việc dân chủ trong công ty đã tạo ra cơ chế để đoàn viên và người lao động được tự do và được bảo vệ khi đóng góp ý kiến, cải thiện quy trình làm việc, nâng cao hiệu suất, thúc đẩy tăng năng suất lao động, duy trì mối quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ và sự gắn kết của người lao động, từ đó góp phần gia tăng NSLĐ.
Về văn hóa doanh nghiệp: Sự thành công của Honda Việt Nam hôm nay là quá trình phát triển và duy trì văn hóa doanh nghiệp lâu dài và bền vững dựa vào 3 triết lý: Niềm tin cơ bản, tôn chỉ công ty và chính sách quản lý. Văn hóa doanh nghiệp, tôn trọng con người được hướng dẫn, phổ biến, khuyến khích người lao động nỗ lực, chủ động, mơ ước, sáng tạo, cởi mở, thẳng thắn, nhiệt tình, ứng xử công bằng, có trách nhiệm tin tưởng lẫn nhau, sử dụng thời gian hiệu quả, xây dựng tác phong làm việc khoa học. Việc duy trì văn hóa doanh nghiệp, luôn đặt người lao động ở vị trí trung tâm, quan tâm đào tạo, phát triển nguồn nhân lực được cụ thể hóa bằng các giải pháp, các hoạt động, các kế hoạch triển khai riêng biệt cụ thể, hàng năm, hàng tháng, hàng ngày và lồng ghép trong mọi lĩnh vực, đã, đang và sẽ tạo động lực để người lao động nỗ lực đóng góp, nâng cao hiệu suất lao động.
Ngoài việc triển khai triệt để những chỉ đạo của công đoàn cấp trên và công đoàn công thương Việt Nam cũng như kiểm soát tốt việc thực hiện môi trường làm việc an toàn, thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở, phát triển văn hóa doanh nghiệp đã thúc đẩy tăng năng suất lao động. Nhìn lại ngày đầu năm 1996, cứ 48 giây có một xe máy được lắp ráp rời khỏi dây chuyền, đến năm 2024 giảm xuống còn 24 giây. Tính đến nay, công ty đã cung cấp gần 40 triệu chiếc xe máy, ô tô ra thị trường trong nước và quốc tế. Với người lao động, công ty thực hiện đầy đủ trách nhiệm như đóng thuế, đóng bảo hiểm cho người lao động, trả lương đầy đủ , hiên nay công ty áp dụng lịch làm việc 5 ngày 1 tuần, người lao động với thu nhập bình quân 16.500 đồng/ người/ tháng. Các kết quả thanh kiểm tra của cơ quan chức năng cho thấy Honda Việt Nam đang duy trì và thực hiện tốt quy định của pháp luật. Nhờ những nỗ lực không ngừng, Công ty vinh dự được khen tặng Huân chương Lao động Hạng Nhì, Công đoàn vinh dự được khen tặng Huân chương Lao động Hạng Ba.
Nhân Diễn đàn quan trọng này, tôi xin có đề xuất, kiến nghị như sau:
1. Xin bổ sung có các quy định, chế tài cụ thể về việc xử lý người sử dụng lao động không thực hiện đầy đủ các quy định dân chủ tại doanh nghiệp.
2. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tăng cường tổ chức các diễn đàn, hội nghị trực tiếp, trực tuyến, chuyên đề chuyên sâu để các công đoàn cơ sở và người sử dụng lao động tham gia chia sẻ những khó khăn và trao đổi kinh nghiệm trong việc xây dựng môi trường làm việc an toàn, xây dựng quy chế dân chủ và văn hóa doanh nghiệp.
Chế độ lương, thưởng, phúc lợi thỏa đáng là động lực quan trọng thúc đẩy nâng cao năng suất lao động
TS. Phạm Thu Lan, Viện Công nhân - Công đoàn, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam: Mọi người lao động (NLĐ) đi làm đều quan tâm tới tiền lương, đặc biệt là người có thu nhập thấp. Thực tế đã khẳng định mối quan hệ chặt chẽ và tỉ lệ thuận giữa tiền lương, thưởng và phúc lợi với động lực làm việc, sự hài lòng và toàn tâm trong công việc. NLĐ dù muốn gắn bó nhưng cũng không thể ở lại mãi với công ty khi lương thấp. Điều này giải thích tại sao tỷ lệ nhảy việc cao, 8-12%/tháng ở các ngành đông lao động. Trong quan hệ kinh tế, nhảy việc để tìm kiếm công việc phù hợp với kỹ năng, trình độ và phát huy tối ưu năng lực của bản thân là việc bình thường, nhưng nhảy việc chỉ thuần túy để tìm kiếm mức lương cao hơn cho một công việc tương tự lại là sự lãng phí không đáng có. Một doanh nghiệp (DN) có 1.000 công nhân nhưng 1 tháng 100 công nhân liên tục ra vào DN. DN này sẽ phải tốn rất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc và nhân lực cho quảng cáo tuyển dụng, tổ chức phỏng vấn, làm thủ tục, hồ sơ, giấy tờ và đào tạo nhân viên… trong khi những chi phí này hoàn toàn có thể tiết kiệm để đầu tư cho tăng năng suất.
Năng suất của các yếu tố khác đều phụ thuộc vào yếu tố lao động. NLĐ không có kỹ năng thì mong muốn đầu tư, đổi mới máy móc, thiết bị, công nghệ hiện đại cũng trở nên vô nghĩa. Tuy nhiên, học tập cũng cần có động lực. NLĐ khi còn đang phải vướng bận kiếm bữa cơm hằng ngày cho gia đình thì học tập cho bản thân không phải là sự ưu tiên. NLĐ không thể dành thời gian, tâm trí và sức lực cho việc học tập, chưa nói tới người có tiền lương thấp sẽ không có nguồn lực để đầu tư cho học tập cho bản thân và con cái. Thiếu học tập nâng cao trình độ, Việt Nam sẽ không thể nâng cấp chuỗi giá trị, theo kịp xu hướng chuyển đổi số, chuyển đổi xanh trong nền kinh tế toàn cầu.
Trong gần 40 năm đổi mới, Chính phủ rất nỗ lực cải thiện tiền lương, đời sống, việc làm và thu nhập thông qua nhiều chính sách và biện pháp toàn diện. Từ một đất nước bị chiến tranh tàn phá, người dân đói ăn, thiếu mặc, Việt Nam hôm nay trở thành nước có thu nhập bình quân đầu người hơn 4.000 đô la; tầng lớp trung lưu tăng nhanh, là một bước tiến mà nhiều quốc gia trên thế giới phải thán phục.
Chúng ta tự hào về kết quả tăng năng suất trong chặng đường đã qua, nhưng tăng năng suất trong chặng đường sắp tới là một thách thức, bởi chuyển từ một nước thu nhập thấp lên một nước thu nhập trung bình dễ hơn rất nhiều so với từ một nước thu nhập trung bình lên thu nhập cao. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, tăng năng suất giai đoạn tới không thể dựa vào việc đi tiếp con đường đã đi mà đòi hỏi sự chuyển đổi mô hình, chuyển đổi nền kinh tế đi liền với chuyển đổi về việc làm, lực lượng lao động và kỹ năng. Để thực hiện thành công sự chuyển đổi đồng bộ này, chính sách tiền lương, tiền thưởng và phúc lợi đóng vai trò vô cùng quan trọng.
Từ thành công giai đoạn vừa qua, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số đề xuất đóng góp cho tăng năng suất lao động từ yếu tố lao động trong giai đoạn tới:
Thứ nhất, cần xác lập mức lương tối thiểu thỏa đáng. Đây là nội dung mà rất nhiều nước quan tâm. Mức lương tối thiểu là sàn an sinh xã hội và là quyền cơ bản của con người. Mức lương tối thiểu thỏa đáng không chỉ đảm bảo trang trải chi phí cơ bản cần thiết cho NLĐ và gia đình như thực phẩm đủ dinh dưỡng, nhà ở, chăm sóc sức khỏe, quần áo, đi lại, giáo dục, quan hệ xã hội, mà còn cần một khoản dự phòng cho sự việc bất khả kháng và tiết kiệm cho tương lai. Tổ chức công đoàn mong muốn Chính phủ chỉ đạo Hội đồng Tiền lương quốc gia trong thời gian tới nghiên cứu và xác lập mức lương tối thiểu thỏa đáng, tư vấn cho Chính phủ để tiền lương thực sự là động lực tăng năng suất. Về việc này, các DN thường lo ngại tăng lương sẽ làm giảm việc làm. Tuy nhiên, nghiên cứu của 3 nhà kinh tế học người Mỹ về tác động của lương tối thiểu tới thất nghiệp trên thế giới trong hơn 30 năm qua – nghiên cứu đạt giải Nobel năm 2021 - chứng minh rằng tăng lương tối thiểu không làm tăng thất nghiệp và cũng không loại bỏ việc làm, mà ngược lại, có nơi, tăng lương tối thiểu dẫn tới gia tăng đáng kể việc làm và đóng góp cho chính thức hóa việc làm.
Thứ hai, tăng độ bao phủ BHXH. Hiện tại, tỷ lệ tham gia BHXH của NLĐ liên tục tăng trong những năm vừa qua, đến nay đạt hơn 38% lực lượng lao động. Tổ chức công đoàn mong muốn mục tiêu độ bao phủ BHXH đến năm 2030 đạt 60% như kế hoạch đề ra, đáp ứng mong mỏi của NLĐ.
Thứ ba, thúc đẩy bình đẳng giới về thu nhập. Phụ nữ chiếm hơn một nửa dân số và gần một nửa lực lượng lao động, nhưng các nghiên cứu chỉ ra rằng khoảng cách lương và thu nhập giữa nam và nữ là 10-15% tùy theo ngành và lĩnh vực. Tổ chức công đoàn mong muốn các biện pháp cụ thể được thực hiện để không chỉ bảo đảm tiền lương như nhau cho công việc như nhau, mà quan trọng hơn phải là bảo đảm tiền lương như nhau cho công việc có giá trị như nhau.
Thứ tư, chính sách phúc lợi nhà ở, trường học, bệnh viện. Đề án 1 triệu nhà ở xã hội của Chính phủ là sự quan tâm riêng dành cho công nhân lao động. Mong muốn của NLĐ là Chính phủ đẩy nhanh tiến độ xây dựng nhà ở xã hội đi kèm với cơ sở hạ tầng về trường học, bệnh viện và các tiện tích cơ bản khác để NLĐ thu nhập thấp đạt được ước mơ sở hữu căn nhà riêng của mình trong những năm tới.
Thứ năm, thu hút nhà đầu tư nước ngoài có trách nhiệm. Chúng ta cần lựa chọn nhà đầu tư tiên tiến, chất lượng, có tính tuân thủ pháp luật cao để đóng góp nâng cao năng suất lao động quốc gia.
Thứ sáu, luật hóa trách nhiệm trong chuỗi cung ứng của DN lớn. Vi phạm pháp luật lao động chủ yếu xảy ra ở các DN vừa và nhỏ mà Nhà nước không thể kiểm soát hết. Vì vậy, cộng đồng DN cần chia sẻ trách nhiệm với Nhà nước trong việc giám sát tuân thủ pháp luật lao động, thông qua việc luật hóa trách nhiệm các DN lớn giám sát các DN thầu phụ trong chuỗi cung ứng của mình.
Thứ bảy, sự thiện chí của người sử dụng lao động (NSDLĐ). Tổ chức công đoàn có vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường là thực hiện thương lượng tập thể với NSDLĐ về tiền lương, tiền thưởng, điều kiện làm việc tại nơi làm việc. Để thương lượng tập thể hiệu quả, rất cần có sự thiện chí của NSDLĐ. Tổ chức công đoàn mong muốn Chính phủ chỉ đạo cộng đồng DN thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý về thiện chí trong thương lượng tập thể, tạo điều kiện để thành lập tổ chức công đoàn đại diện cho NLĐ trong thương lượng, đặc biệt ở khu vực DN vừa và nhỏ và khu vực hợp tác xã. Hiện nay, tỷ lệ thành lập công đoàn trong hai khu vực này chưa tới 10%.
Tài sản là quan trọng nhưng di sản còn quan trọng hơn. Nền kinh tế có thể tạo ra nhiều tài sản để lại cho thế hệ mai sau, nhưng di sản về cơ chế, thiết chế, chính sách và các sàn xã hội về tiền lương, thu nhập, y tế, giáo dục, an sinh xã hội và các khía cạnh xã hội khác để lại cho thế hệ mai sau sẽ có giá trị hơn rất nhiều.
Nâng cao chất lượng đào tạo nghề, cung ứng nguồn nhân lực chất lượng cao cho doanh nghiệp
NGƯT.TS. Phạm Xuân Khánh, Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Công nghệ cao Hà Nội: Phát triển nguồn nhân lực được coi là một trong ba khâu đột phá trong chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của nước ta. Chính vì vậy, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao với các chủ trương, chính sách, thể chế được quy định cụ thể trong Nghị quyết của Đảng, văn bản pháp luật của Nhà nước. Đặc biệt là Chỉ thị số 21-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, nhằm tạo đột phá về phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, có kỹ năng nghề đáp ứng yêu cầu phát triển mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Hiện nay, Việt Nam có nguồn cung lao động dồi dào và khả năng thích nghi cao, được đánh giá là tiếp thu nhanh những tiến bộ khoa học, kỹ thuật trong sản xuất và kỹ năng quản lý. Cơ cấu lao động đang chuyển dịch theo hướng tích cực. Tỉ lệ lao động tham gia trong độ tuổi vẫn duy trì ở mức cao. Tỉ lệ thất nghiệp ở mức thấp so với khu vực. Chất lượng việc làm, thu nhập của người lao động đều đặn được tăng lên.
Tuy nhiên, thị trường lao động chúng ta vẫn còn nhiều hạn chế, các doanh nghiệp vẫn rơi vào tình trạng thiếu lao động do dư thừa lao động có chất lượng thấp, lao động không có trình độ chuyên môn chiếm tỉ lệ lớn, tỉ lệ lao động đã qua đào tạo còn thấp, thiếu đội ngũ có trình độ chuyên môn giỏi trong các lĩnh vực, khả năng tự tìm kiếm việc làm, chuyển đổi nghề nghiệp còn nhiều hạn chế. Dẫn đến, nhiều doanh nghiệp đã phải thuê lao động nước ngoài. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc thất nghiệp ngày càng gia tăng của nước ta hiện nay. Các nguồn đầu tư FDI đầu tư vào Việt Nam sẽ bị suy giảm nghiêm trọng nếu không có sự thay đổi về chất lượng đào tạo kịp thời, đất nước sẽ đứng trước nguy cơ tụt hậu về nguồn nhân lực, mất đi lợi thế về chi phí lao động giá rẻ.
Trong bối cảnh đó, đòi hỏi phải đổi mới và nâng cao chất lượng dạy và học, tập trung đào tạo chất lượng cao, đào tạo theo hướng mở, linh hoạt, chuyển từ hướng "cung" sang hướng "cầu", đào tạo gắn kết với nhu cầu sử dụng lao động của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp đòi hỏi lao động tay nghề cao ở các lĩnh vực công nghệ tiên tiến là yêu cầu bắt buộc của hệ thống GDNN. Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cần áp dụng đồng thời nhiều giải pháp như: Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên; thường xuyên đổi mới chương trình, giáo trình, đưa các chương trình quốc tế vào giảng dạy; đổi mới mô hình quản lý, áp dụng công nghệ thông tin trong toàn bộ quá trình quản lý, đào tạo; đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị máy móc đồng bộ, hiện đại đảm bảo đủ cho sinh viên, học sinh vừa học, vừa hành, vừa nghiên cứu, sản xuất; hợp tác chặt chẽ với doanh nghiệp từ khâu tuyển sinh, xây dựng chương trình, giáo trình, tổ chức đào tạo cho đến giải quyết việc làm.
Để góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, cung ứng nguồn nhân lực chất lượng cao, tôi xin có một số đề xuất, kiến nghị với Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương một số nội dung như sau:
Thứ nhất: Xây dựng một số cơ sở đào tạo chất lượng cao, đạt chuẩn quốc tế, thực hiện được chức năng trung tâm vùng, quốc gia về đào tạo và thực hành chất lượng cao. Có thể vừa đào tạo cho sinh viên, đào tạo lại, đào tạo nâng cao kỹ năng nghề cho người lao động các doanh nghiệp có. Trong đó, chú trọng ưu tiên đầu tư đồng bộ cho một số ngành nghề công nghệ cao, công nghiệp mũi nhọn như công nghệ bán dẫn, năng lượng thông minh, chế biến chế tạo mà Chính phủ đang ưu tiên đầu tư phát triển.
Thứ hai: Thành lập Hội đồng kỹ năng ngành, nghề (Industrial Skills Board) trong một số lĩnh vực với sự tham gia của cơ quan quản lý Nhà nước dự báo nhu cầu nhân lực theo cơ cấu ngành, nghề, giới tính và trình độ đào tạo phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội theo từng giai đoạn, làm căn cứ cho các cơ sở đào tạo xây dựng chương trình đào tạo đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động của doanh trước mắt và lâu dài.
Thứ ba: Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành hướng dẫn cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp cho phép thành lập DN trong các cơ sở GDNN theo Khoản 2 điều 25 Thông tư 15/2021/TT-BLĐTBXH nhằm gia tăng nguồn thu từ các hoạt động sản xuất khoa học công nghệ, kinh doanh, dịch vụ góp phần gia tăng các nguồn thu để tái đầu tư, tăng thu nhập cho người lao động, từng bước thực hiện thành công cơ chế tự chủ, bảo đảm chi thường xuyên, chi đầu tư theo Nghi định 60 của Chính phủ về nội dung này.
Thứ tư: Cần đổi mới hơn công tác quản lý giáo dục nghề nghiệp như rà soát, sửa đổi đồng bộ các văn bản quy phạm pháp luật; tiếp tục xây dựng, ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật giáo dục nghề nghiệp, ban hành các chuẩn, định mức kinh tế kỹ thuật; rà soát, bổ sung, điều chỉnh danh mục ngành, nghề đào tạo mới; xây dựng và ban hành các chuẩn kiến thức, kỹ năng (chuẩn đầu ra) cho các ngành, nghề tương ứng với từng cấp trình độ đào tạo với sự tham gia của doanh nghiệp, đảm bảo phù hợp với khung trình độ và tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia; xây dựng hệ thống thông tin quản lý hiện đại, kết nối cung và cầu đào tạo trong toàn hệ thống như cơ sở dữ liệu quốc gia về giáo dục, giáo dục nghề nghiệp. Ban hành qui định sử dụng lao động qua đào tạo để thu hút người học nghề, góp phần tăng năng suất lao động, đảm bảo an sinh xã hội.
Thứ năm: Ban hành các danh mục nghề nghiệp bắt buộc phải sử dụng lao động qua đào tạo để hạn chế tuyển dụng lao động phổ thông không qua học nghề vừa góp phần tăng năng suất lao động cho doanh nghiệp vừa bảo đảm an toàn lao động cho người lao động. Ban hành thông tư hướng dẫn việc thu hút đầu tư từ doanh nghiệp cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, nhằm khai thác các thiết bị, công nghệ mới, thu hút đầu tư của doanh nghiệp theo hướng xã hội hoá và hợp tác công tư.
Thứ sáu: Cho phép các trường thành lập trường trong trường, thêm chức năng dạy văn hóa cho các học sinh tốt nghiệp PTCS theo chương trình giáo dục thường xuyên tại các cơ sở giáo dục nghiề nghiệp. Đồng thời ban hành đồng bộ hỗ trợ học phí cho học sinh học nghề, đặc biệt là các nghề có nhu cầu sử dụng lao động lớn nhưng ít người học. Đẩy mạnh truyền thông cho giáo dục nghề nghiệp nhằm thu hút người học nghề nhằm góp phần thay đổi cơ cấu, trình độ lực lượng lao động hiện nay. Đồng thời quan tâm hơn nữa đến chính sách chế độ đãi ngộ, nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đặc biệt là đối với các nghề mới, các nghề công nghệ cao. Trong các doanh nghiệp chỉ cần hình thành quỹ đầu tư cho công tác đào tạo, đào tạo lại, nâng cao kỹ năng nghề cho người lao động có thể trong nước hoặc nước ngoài nhằm nâng cao năng suất, chất lượng lao động của doanh nghiệp.
Chuyển đổi số và ứng dụng KHCN vào quá trình sản xuất, kinh doanh, góp phần nâng cao năng suất lao động
Bà Vũ Thị Mai, Giám đốc nhân sự Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông Quân đội Viettel: Việc duy trì NSLĐ cao là một trong những cơ sở quan trọng để Chính phủ quyết định ban hành một Nghị định riêng về tiền lương cho Viettel và đây cũng đã trở thành tiền đề quan trọng giúp Viettel có được những thành tựu như ngày hôm nay.
Năm 2023, NSLĐ theo doanh thu của toàn Tập đoàn là hơn 4,1 tỷ đồng/người/năm. Trong đó, tại 1 số đơn vị viễn thông, công nghệ số thì con số này là hơn 9 tỷ đồng/người/năm, tương đương với các Doanh nghiệp tiên tiến trên thế giới cùng lĩnh vực (Orange-Pháp, Telefornica-Tây Ban Nha). Từ thực tiễn triển khai, Viettel xin chia sẻ một số giải pháp để thúc đẩy NSLĐ với 03 trụ cột chính là Nhân lực, Công cụ và Cơ chế chính sách, cụ thể như sau:
Thứ nhất, chất lượng nguồn nhân lực mang ý nghĩa quyết định đến việc thúc đẩy, nâng cao NSLĐ. Viettel chú trọng lựa chọn những nhân sự phù hợp trên cả 3 khía cạnh: kiến thức, kỹ năng và thái độ. Việc tuyển dụng hay bổ nhiệm CBQL các cấp ngoài dựa trên năng lực, thành tích thì cần cả yếu tố phù hợp với văn hóa. Nhờ đó, chúng tôi luôn tuyển chọn được các nhân sự không chỉ giỏi về chuyên môn mà còn có tinh thần sẵn sàng dấn thân, cống hiến. Kết quả là,Viettel hiện đang sở hữu đội ngũ hàng nghìn nhân sự chất lượng cao trong các ngành viễn thông, nghiên cứu CNC, làm chủ việc thiết kế, vận hành mạng lưới trên toàn cầu, các công nghệ 4G, 5G hay đội ngũ 300 chuyên gia ANM, có tuổi đời rất trẻ nhưng đã giành được nhiều giải thưởng uy tín trên thế giới. Viettel cũng là DN dẫn đầu về số lượng sáng chế tại Việt Nam với 142 bằng bảo hộ trong nước, 17 bằng bảo hộ tại Mỹ và hơn 220 công nghệ lõi.
Thứ hai,chuyển đổi số mạnh mẽ, áp dụng những công nghệ mới nhất trong hoạt động SXKD như AI, Phân tích dữ liệu lớn. Tại Viettel, các hệ thống, công cụ được xây dựng xuyên suốt, đồng bộ để từ cán bộ lãnh đạo đến từng người lao động đều có thể sử dụng. Người bán hàng trực tiếp thông qua ứng dụng mBCCS có thể biết được chỉ tiêu được giao, kết quả bán hàng và mức thu nhập là bao nhiêu. CBQL có thể dựa trên dữ liệu kinh doanh được cập nhật chính xác để kịp thời ra quyết định. Trong hoạt động chăm sóc khách hàng, trợ lí ảo AI đã được đưa vào sử dụng thông qua các cuộc gọi video KYC xác thực khách hàng với gần 10 triệu cuộc gọi, hàng chục triệu lượt giải đáp khách hàng tự động 24/7, giúp tiết kiệm khoảng 60 tỷ đồng mỗi năm. Kể cả những ngành trước đây được coi là truyền thống như Bưu chính, chúng tôi đã đưa vào vận hành hệ thống chia chọn thông minh, sử dụng robot tự hành AGV góp phần tăng sản lượng lên 3,5 lần và tối ưu đến 60% nhân sự.
Thứ ba, về các cơ chế chính sách tạo động lực, khuyến khích đổi mới sáng tạo, tăng NSLĐ và trao cơ hội phát triển cho NLĐ dựa trên 05 yếu tố chính gồm:
Một là, về môi trường làm việc, là một Tập đoàn kinh doanh toàn cầu, đội ngũ CBNV mang nhiều quốc tịch khác nhau, Viettel xây dựng một môi trường làm việc cởi mở, thân thiện, tôn trọng sự đa dạng. Tập đoàn có nhiều "kênh" để người lao động có thể trực tiếp nêu các khó khăn, vướng mắc hay góp ý về các cơ chế chính sách như: Chương trình đối thoại với TGĐ, diễn đàn trực tuyến "Vì Viettel tốt lên", qua tổ chức Công đoàn hay Khảo sát mức độ gắn kết của CBNV hàng năm.
Hai là, văn hóa giao việc khó, mang tính thách thức cao để CBNV có cơ hội dấn thân, thể hiện khát vọng cống hiến cho tổ chức và xã hội. Nhờ vậy, Viettel có những CBQL luôn sẵn sàng nhận nhiệm vụ đi làm việc tại các thị trường nước ngoài gian khổ nhất. Đây còn là cách để phát hiện người giỏi và đòi hỏi CBNV không ngừng sáng tạo, tìm giải pháp đột phá, tăng NSLĐ.
Tập đoàn cũng xây dựng phong trào sáng kiến ý tưởng mạnh mẽ. Hiện nay, trung bình mỗi ngày tại Viettel có hơn 2 sáng kiến/ý tưởng mới được công nhận. Một ví dụ cụ thể là đồng chí Nguyễn Tuấn Hồng, nhân viên TCT CP Công trình Viettel đã vinh dự được nhận giải thưởng Nguyễn Đức Cảnh năm 2023 của TLĐ LĐ Việt Nam với 9 sáng kiến, làm lợi hơn 30 tỷ đồng.
Ba là, có cơ chế lương thưởng, đãi ngộ phù hợp với năng lực và thành tích đóng góp để CBNV yên tâm công tác. Nhờ có chính sách tiền lương đặc thù, Viettel đã xây dựng hệ thống ngạch, bậc rõ ràng, có cơ chế trả lương thưởng cao trên thị trường lao động, tương xứng với năng lực, trách nhiệm và kết quả hoàn thành nhiệm vụ của từng CBNV. Tại các đơn vị kinh doanh mang tính cạnh tranh cao, Viettel áp dụng cơ chế khoán để khuyến khích CBNV tìm tòi, sáng tạo, nâng cao NSLĐ và được thưởng tương xứng theo giá trị tăng thêm. Tập đoàn còn quan tâm đến việc đa dạng hóa các chương trình phúc lợi như khám sức khỏe định kỳ, mua bảo hiểm sức khỏe trong nước & nước ngoài, bảo hiểm nhân thọ,v.v.
Bốn là, chú trọng đến hoạt động đào tạo và phát triển nhất là thông qua luân chuyển công việc: Các chương trình đào tạo nâng cao kiến thức, kỹ năng, thái độ của người lao động thường xuyên được triển khai ở tất cả các cấp độ, từ lãnh đạo cấp cao cho đến nhân viên bán hàng, chuyển phát, ứng cứu thông tin. Năm 2023, trung bình mỗi CBNV được đào tạo gần 57h/người/năm. Viettel còn đặc biệt chú trọng đến việc đào tạo thông qua thực tiễn bằng việc luân chuyển, nhất là với các cán bộ nguồn. Việc luân được thực hiện đồng bộ: giữa các cơ quan đơn vị với nhau, giữa các đơn vị trong nước, nước ngoài; theo chiều cả từ trên xuống dưới và dưới lên trên.
Năm là, tạo dựng lộ trình phát triển bản thân để CBNV có cơ hội thăng tiến: Đây luôn là yếu tố được Viettel ưu tiên khi thiết kế các chính sách nhân sự. Tất cả các CBNV đều được trao cơ hội thăng tiến như nhau dựa trên năng lực, thành tích đóng góp cho tổ chức. Chúng tôi xây dựng lộ trình theo mô hình "2 chóp"- (Chóp quản lý và Chóp chuyên gia), để từng CBNV có thể chủ động lựa chọn nhằm phát huy tối đa sở trường của bản thân.
Cuối cùng, là một doanh nghiệp phải cạnh tranh toàn cầu, Viettel liên tục đổi mới trong tư duy quản trị, tái cấu trúc lại mô hình kinh doanh, tinh gọn bộ máy, tối ưu hóa các quy trình, luồng công việc rõ ràng, tránh chồng chéo, phân công đúng người, đúng việc. Đây là điều kiện vô cùng quan trọng để đảm bảo các nguồn lực được phân bổ một cách hợp lý, từng cá nhân được phát huy tối đa năng lực.
09:01 ngày 26/05/2024
Vai trò của Công đoàn trong việc thúc đẩy tăng năng suất lao độngÔng Đặng Tuấn Tú, Chủ tịch công đoàn cơ sở công ty Changshin Việt Nam: Công ty Chang shin Việt Nam là doanh nghiệp 100% vốn đầu tư Hàn Quốc, chuyên sản xuất giày thể thao Nike, đi vào hoạt động từ năm 1995 với 38.495 đoàn viên/ 38.500 lao động, tỉ lệ tập hợp đạt 99,9%.
Là tổ chức đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền lợi người lao động (NLĐ), công đoàn công ty đồng thời xác định trách nhiệm của mình trong việc tham gia thức đẩy năng suất lao động bằng các hoạt động thiết thực của công đoàn. Khi năng suất lao động cao, chắc chắn NLĐ sẽ có thu nhập xứng đáng, đời sống không ngừng được cải thiện. Trong hoạt động, chứng tỏ mình là một đối tác tin cậy không thể thiếu trong doanh nghiệp, cùng đồng hành và tham gia vào các hoạt động kinh doanh của công ty để duy trì việc làm, tiền lương, thu nhập của người lao động. Tôi xin nêu một số hoạt động chủ yếu của công đoàn góp phần nâng cao năng suất lao động tại doanh nghiệp:
Tích cực chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho NLĐ: Chúng tôi nhận thức rằng chỉ khi NLĐ được chăm lo, động viên kịp thời cả về vật chất và tinh thần thì họ mới yên tâm làm việc, hăng hái thi đua lao động sản xuất, có thể nêu ra một số hoạt động thiết thực, hiệu quả: Tổ chức phát quà Tết, tặng vé tàu, vé xe cho NLĐ; thăm hỏi động viên đầy đủ khi NLĐ ốm đau, hiếu hỷ; tổ chức sinh nhật, tặng quà nhân các ngày lễ; Chương trình "Vòng tay nhân ái" giúp đỡ cho những người mắc bệnh hiểm nghèo, nan y có điều kiện chữa trị, chương trình đã thực hiện từ 2019 và có hàng trăm công nhân đã được tiền hỗ trợ, riêng năm 2023 vận động cho 38 công nhân với tổng số tiền là 2,1 tỷ đồng bình quân mỗi người nhân khoảng 55 triệu đồng.
Xây dựng Mái ấm công đoàn thực hiện từ những năm 2000, qua chương trình này đã giúp cho 184 công nhân có nhà ở, trị giá mỗi căn là 50 triệu đồng. Tuyên dương học giỏi sống tốt cho con công nhân lao động - năm 2023 tuyên dương cho 7.705 cháu với tổng kinh phí là: 1,5 tỷ đồng. Tổ chức cho người lao động chia sẻ kinh nghiệm trong lao động gắn với thăm quan nghỉ mát cho người lao động - năm 2023 có 18.000 lao động thăm quan tai Vũng Tàu với kinh phí 12,3 tỷ đồng. Tín chấp ngân hàng cho công nhân vay vốn với lãi suất thấp, năm 2023 có 2.580 công nhân vay với tổng số tiền là: 168,3 tỷ đồng.
Trong Tháng Công nhân, công đoàn kết hợp với Công ty tổ chức nhiều hoạt động chăm lo về vật chất cũng như tinh thần cho người lao động như: Bóng đá, bóng chuyền, thi karaoke, thi nấu ăn, thi kéo co, tìm hiểu pháp luật, thăm công nhân nhà trọ, công nhân nghèo địa phương, bán hàng bình ổn giá, tặng quà tri ân, rút thăm may mắn… chương trình diễn ra sôi nổi xuyên suốt tháng trở thành ngày hội lớn của người lao động. Các hoạt động này giúp công nhân gắn bó với công ty, tăng cường đoàn kết, tạo động lực làm việc với năng suất cao, chất lượng tốt.
Bảo vệ quyền lợi cho NLĐ: Công đoàn đã thực hiện tốt việc giám sát, kiểm tra, đôn đốc, thực hiện nghiêm túc các chính sách pháp luật, nội quy lao động, thỏa ước lao động tập thể, hợp đồng lao động, tiền lương, phúc lợi, điều kiện làm việc, an toàn vệ sinh lao động. Thường xuyên đối thoại định kỳ và đột xuất với Ban Giám đốc Công ty, thực hiên nghiêm túc quy chế dân chủ tại doanh nghiệp. Chủ động xây dựng lộ trình họp lương với Ban Giám đốc Công ty. Lấy ý kiến người lao động để xây dựng được thỏa ước lao động tập thể với nhiều nội dung tốt hơn so với luật định, thỏa ước của công ty được đánh giá thỏa ước lao động hạng A. Hoạt động thiết thực này đã góp phần bảo vệ tốt hơn quyền lợi của NLĐ.
Tuyên truyền giáo dục: Công đoàn đã vận động người lao động tuân thủ nội quy lao động gắn với phát động thi đua lao động giỏi, lao động sáng tạo, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, thực hành tiết kiệm nguyên vật liệu góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Công đoàn luôn góp ý với doanh nghiệp trong công tác quản trị, ứng dụng công nghệ, xây dựng hệ thống văn bản, chuyển tải tâm tư nguyện vọng của NLĐ đến chủ doanh nghiệp, trong đó có nhiều ý kiến góp phần nâng cao năng suất lao động.
Nhờ vào vai trò của tổ chức công đoàn, trong những năm qua, năng suất của người lao động trong công ty ngày một tăng (năm 2012, mỗi công nhân một ngày chỉ sản xuất được 2,85 đôi giày, thì sang năm 2024, mỗi ngày mỗi công sản xuất được 3,44 đôi giày).
Trong diễn đàn hôm nay, tôi cũng như công nhân lao động cả nước xin gửi tới Thủ tướng lời cảm ơn sâu sắc vì trong những năm qua Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ luôn quan tâm đến người lao động. Qua diễn đàn này, tôi xin có một số kiến nghị gửi lên Thủ tướng, các cấp, các ngành xem xét, cụ thể đó là:
Thứ nhất, khi Luật Công đoàn sửa đổi, kính đề nghị Chính phủ và Quốc hội tiếp tục ủng hộ việc trích nộp kinh phí 2% từ doanh nghiệp, để tạo điều kiện tốt nhất cho các hoạt động chăm lo cho người lao động và giữ chân NLĐ gắn bó với doanh nghiệp. Nhiều năm nay, đầu mục kinh phí chăm lo cho NLĐ ở doanh nghiệp đã được công khai và NLĐ được hưởng liên tục rồi, nên nếu có sự thay đổi giảm bớt, NLĐ sẽ rất bức xúc, bất lợi cho việc tập hợp NLĐ của tổ chức công đoàn.
Thứ hai, đề nghị Chính phủ xây dựng lộ trình giảm thời gian làm việc từ 48 giờ/tuần xuống 44 giờ/tuần và 40 giờ/tuần cho phù hợp và theo kịp các nước cùng khu vực đồng thời tạo điều kiện cho người lao động có thời gian nghỉ ngơi dài hơn để tái tạo sức khỏe và chăm sóc hạnh phúc gia đình.
Thứ ba, trong thời đại công nghệ 4.0 để việc thúc đẩy tăng năng suất lao động các doanh nghiệp cần phải đầu tư máy móc công nghệ hiện đại thay thế cho những công việc thủ công lạc hậu, quan tâm đào tạo nâng cao tay nghề cho NLĐ. Kính đề nghị Chính phủ cần hoàn thiện đồng bộ môi trường pháp lý, tạo điều kiện giảm thuế các mặt hàng nhập khẩu máy móc, thiết bị hiện đại, quy trình nhập khẩu đơn giản và linh hoạt.
Thủ tướng chia sẻ tại Diễn đàn
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính bày tỏ sự chia sẻ với tham luận và các ý kiến tại Diễn đàn. Qua các đề xuất, kiến nghị, Thủ tướng đã khái quát lại 6 điểm chung về tăng năng suất lao động. Đó là:
- Yêu nghề, yêu lao động
- Luôn luôn học hỏi, đề cao kiến thức và tay nghề
- Tuân thủ kỷ luật về vệ sinh an toàn lao động và xây dựng môi trường lao động lành mạnh, bình đẳng
- Luôn luôn đổi mới sáng tạo
- Được đãi ngộ thoả đáng về tinh thần vật chất, nhất là tiền lương và phúc lợi xã hội, khen thưởng, tôn vinh người lao động
- Chính phủ, Công đoàn và các chủ thể có liên quan phải xây dựng được hệ sinh thái lao động tốt
“Xuyên suốt là con người, là trung tâm, là chủ thể của tăng năng suất lao động. Con người vừa là nguồn lực, là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển và tăng năng suất lao động. Chúng ta không hy sinh tiến bộ công bằng xã hội, không hy sinh an sinh xã hội, không hy sinh môi trường để chạy theo cái tăng trưởng đơn thuần”, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh.
Trả lời câu hỏi của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, chị Bùi Hồng Thanh (Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam) cho biết: Cá nhân tôi rút ra được, trong thời đại mới, mục tiêu nâng cao năng suất lao động là tiên quyết đưa đất nước phát triển và hội nhập. Với các giải pháp mà các doanh nghiệp đưa ra, cá nhân tôi thấy cần xác định từ nguồn lực con người - yếu tố quan trọng bậc nhất và nguồn lực khoa học công nghệ.
Để thực hiện hai mục tiêu này cần phải có sự hội tụ kiến trúc thượng tầng với cung cách quản lý; ngoài ra cần thêm yếu tố doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải biến năng suất lao động bằng văn hóa doanh nghiệp. Nhân viên chỉ làm việc hiệu quả và năng suất nếu giao đúng người đúng việc. Chúng ta cần chú trọng về đào tạo, trong đó đào tạo trực tiếp. Ngoài ra cũng cần chú ý tinh giảm quy trình sản xuất. Đặc biệt, muốn tăng năng suất thì cần có sự ghi nhận và khen thưởng. Ngoài ra, mỗi người lao động cần tự ý thức rằng việc nâng cao năng suất lao động ngoài việc phát triển bản thân thì còn thúc đẩy phát triển đất nước.
Chị Trần Thu Trang (Hãng hàng không Quốc gia Việt Nam - Vietnam Airlines bày tỏ: Qua Diễn đàn, tôi thấy rằng có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến năng suất lao động. Chẳng hạn như: Trình độ, ý thức người lao động, trang thiết bị và quy trình làm việc, môi trường làm việc, động lực làm việc. Ngoài ra, việc giáo dục cho thế hệ trẻ cũng hết sức quan trọng. Muốn nâng cao năng suất thì cần tinh thần lao động tốt và kỹ năng làm việc tốt. Điều này có thể nuôi dưỡng từ ngay thế hệ mầm non, thế hệ trẻ.
Phát biểu tổng kết Diễn đàn và truyền thông điệp đến cán bộ, đoàn viên công đoàn và người lao động cả nước, Thủ tướng Phạm Minh Chính bày tỏ rất vui mừng được tham dự sự kiện này, hoà chung không khí phấn khởi của cả nước trong những ngày tháng 5 lịch sử. Diễn đàn này càng có ý nghĩa khi được tổ chức đúng vào dịp Tháng Công nhân năm 2024 và hướng tới kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Công đoàn Việt Nam (28/7/1929-28/7/2024).
Thủ tướng cho biết nhân Diễn đàn quan trọng này, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gửi lời chúc mừng tốt đẹp nhất tới Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và toàn thể người lao động cả nước.
Thay mặt Chính phủ, Thủ tướng gửi tới quý vị đại biểu, khách quý và toàn thể các đồng chí lời chào trân trọng, lời thăm hỏi ân cần và lời chúc tốt đẹp nhất.
Thủ tướng đánh giá cao Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã lựa chọn chủ đề rất đúng, rất trúng, rất cần thiết và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời, đánh giá cao báo cáo của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và các ý kiến phát biểu thẳng thắn, tâm huyết, trách nhiệm, sát thực tiễn của các đại biểu, đại diện người lao động, doanh nghiệp, nhà nghiên cứu. Trong đó, có nhiều ý kiến đóng góp mang tính xây dựng, rất tích cực, phản ánh rõ những điểm nghẽn, khó khăn, vướng mắc trong nâng cao năng suất lao động (NSLĐ); đưa ra những mô hình tốt, cách làm hay; đặc biệt là đề xuất, kiến nghị những giải pháp sâu sắc, cụ thể.
Thủ tướng yêu cầu các bộ, cơ quan, địa phương tổng hợp đầy đủ các kiến nghị, đề xuất, hiến kế của đoàn viên, người lao động; tập trung rà soát, tiếp thu tối đa để hoàn thiện cơ chế, chính sách, quy định pháp luật liên quan và nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện; đề nghị Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam nghiên cứu, tiếp thu và có giải pháp cụ thể đối với những ý kiến liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền để triển khai trong thời gian tới; tạo môi trường sinh thái tốt nhất cho người lao động phát huy tính sáng tạo, đổi mới, yêu nước, yêu nghề.
Theo Thủ tướng, năng suất lao động là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng - là một trong những thước đo quan trọng nhất để đánh giá, so sánh trình độ phát triển giữa các quốc gia, cũng như giữa các lĩnh vực, địa phương trong từng quốc gia.
Lịch sử kinh tế thế giới chứng minh NSLĐ là yếu tố quyết định đến sự thành công hay thất bại của từng quốc gia, dân tộc trong quá trình phát triển. Nhà Lãnh tụ cộng sản vĩ đại Karl Marx đã từng khẳng định: Năng suất lao động là cái đảm bảo cho sự thắng lợi của trật tự xã hội này đối với một trật tự xã hội khác. Gần đây, Nhà kinh tế học đoạt giải Nobel kinh tế Paul Krugman đã tổng kết: "Năng suất không phải là tất cả nhưng nó gần như là tất cả".
Trong thế giới ngày nay, tăng NSLĐ là một trong những nhân tố quan trọng nhất để các nước đang phát triển nỗ lực vươn lên, hướng đến phát triển nhanh và bền vững, thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình.
Thủ tướng khẳng định: Đảng và Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm đến NSLĐ và chú trọng những giải pháp tăng NSLĐ:
- Tăng năng suất lao động xã hội là một trong những chỉ tiêu chủ yếu được đặt ra trong Nghị quyết Đại hội Đảng (cụ thể: Đại hội XII đề ra chỉ tiêu tăng NSLĐ xã hội bình quân khoảng 5%/năm cho giai đoạn 2016-2020; Đại hội XIII đề ra mục tiêu tăng NSLĐ xã hội bình quân trên 6,5%/năm cho giai đoạn 2021-2025).
- Để tăng NSLĐ, từ Đại hội lần thứ XI đến nay, Đảng ta đã xác định rõ phát triển nguồn nhân lực là 1 trong 3 đột phá chiến lược (cùng với thể chế và hệ thống kết cấu hạ tầng). Đặc biệt, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh phát triển nguồn nhân lực gắn với khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo - Đây chính là những nhân tố căn bản, cốt lõi và tạo nền tảng để tăng NSLĐ nhanh và bền vững.
- Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nêu nhiều nhiệm vụ trọng tâm cụ thể, trong đó có nhiệm vụ: đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
- Để cụ thể hoá những chủ trương theo Nghị quyết Đại hội Đảng, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành và tổ chức triển khai các cơ chế, chính sách, chiến lược, kế hoạch liên quan đến nâng cao NSLĐ. Đặc biệt, ngày 08/11/2023, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1305 phê duyệt "Chương trình quốc gia về tăng NSLĐ đến năm 2030" với mục tiêu đặt ra là: Đến năm 2030, NSLĐ trở thành một động lực quan trọng cho tăng trưởng nhanh, bền vững, tận dụng hiệu quả các cơ hội của cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Thủ tướng chỉ rõ: Thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, NSLĐ của nước ta tăng trưởng tích cực và liên tục trong suốt gần 40 năm đổi mới và hội nhập.
Từ năm 2011 đến nay, theo Tổng cục Thống kê, NSLĐ tăng 2,7 lần, từ 70 triệu đồng/lao động năm 2011 lên 188,7 triệu đồng/lao động năm 2023 - đây là mức cao so với khu vực và đang thu hẹp dần khoảng cách với các nước.
Theo WB, tính theo sức mua tương đương (PPP), trong giai đoạn 2021-2022, NSLĐ Việt Nam tăng bình quân 4%/năm, cao hơn nhiều bình quân chung của thế giới là 2% và đứng thứ 2 Đông Nam Á (NSLĐ bình quân của Singapore, Indonesia, Malaysia, Campuchia, Thái Lan, Philippines lần lượt là 5,8%, 3,7%, 3,3%, 2,2%, 1,9% và 1,2%; trong khi Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản tăng lần lượt 3,5%, 1,7% và 1,5%).
Tăng NSLĐ đã góp phần tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đặc biệt là tăng thu nhập, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Trong quý I/2024, thu nhập bình quân của người lao động là 7,6 triệu đồng, tăng 549 nghìn đồng so với cùng kỳ năm 2023.
Chúng ta khẳng định: đạt được những kết quả quan trọng trên đây là nhờ chủ trương, đường lối, chính sách, giải pháp đúng đắn của Đảng, Nhà nước; sự đồng hành, phối hợp chặt chẽ của các cơ quan trong hệ thống chính trị, trong đó có Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam; sự chỉ đạo quyết liệt, hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm của Chính phủ, các cấp, các ngành, các địa phương; sự nỗ lực của từng người lao động, Nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp.
Thay mặt Chính phủ, Thủ tướng ghi nhận, đánh giá cao và biểu dương sự nỗ lực của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Công đoàn các cấp, cộng đồng doanh nghiệp và toàn bộ đội ngũ công nhân, người lao động trên cả nước trong việc hăng hái thi đua lao động sản xuất, tăng NSLĐ, đóng góp cho thành tựu chung của đất nước.
Bên cạnh kết quả đạt được là cơ bản, việc thực hiện mục tiêu tăng NSLĐ ở nước ta vẫn còn những hạn chế, bất cập và khó khăn, thách thức, như nhiều đại biểu đã nêu.
Mặc dù đã có sự cải thiện nhưng NSLĐ của Việt Nam vẫn ở mức thấp; trong giai đoạn 2021-2023, tỷ lệ tăng NSLĐ thấp hơn mục tiêu đề ra (là 5,5%/năm).
Xét theo giá trị tuyệt đối, NSLĐ của Việt Nam vẫn ở mức thấp so với các nước trong khu vực: NSLĐ của Việt Nam năm 2022 chỉ tương đương 11,4% của Singapore, 24,7% của Hàn Quốc, 26,3% của Nhật Bản, 35,4% của Malaysia, 64,8% của Thái Lan, 79% của Indonesia, 94,5% của Philippines.
Khoảng cách về NSLĐ và trình độ phát triển giữa các vùng, miền, khu vực còn khá lớn. Các yếu tố nền tảng cho tăng năng suất lao động nhanh và bền vững vẫn còn gặp nhiều trở ngại, vướng mắc, chưa thực sự có bước đột phá…; như hạ tầng, chuyển dịch lao động từ nông thôn sang thành thị, từ khu vực phi chính thức sang khu vực chính thức…
Theo Thủ tướng, thời gian tới, bối cảnh tình hình quốc tế dự báo tiếp tục diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường, như nhiều đại biểu đã nêu. Trong đó có thể khái quát, về tổng thể thì hoà bình nhưng cục bộ có chiến tranh; về tổng thể thì hoà hoãn nhưng cục bộ có căng thẳng; về tổng thể thì ổn định nhưng cục bộ lại có xung đột. Kinh tế thế giới gặp những cơn gió ngược cho sự phát triển.
Đất nước ta vẫn còn những khó khăn, thách thức do một thời gian dài bị chiến tranh tàn phá, là nước đang phát triển, nền kinh tế đang chuyển đổi, quy mô còn khiêm tốn, xuất phát điểm thấp, năng lực nội tại còn hạn chế, sức chống chịu và tính cạnh tranh chưa cao, độ mở lại lớn nên chịu nhiều tác động, ảnh hưởng từ các yếu tố bên ngoài.
Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt, trong khi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và khoa học công nghệ phát triển bùng nổ, thay đổi hàng ngày, nâng cao NSLĐ trở thành một vấn đề rất quan trọng, mang tính sống còn đối với tất cả các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Thủ tướng đề nghị Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, toàn thể các đoàn viên, người lao động, Công đoàn các cấp, cộng đồng doanh nghiệp cùng các bộ, ngành, địa phương cùng chung tay tập trung thực hiện: 03 đẩy mạnh, 03 tiên phong, 03 bứt phá để góp phần thúc đẩy tăng NSLĐ.
"03 đẩy mạnh" bao gồm:
(1) Đẩy mạnh hoàn thiện khung khổ pháp lý, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, thúc đẩy doanh nghiệp phát triển, phát huy mạnh mẽ tinh thần khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo.
(2) Đẩy mạnh huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển cả từ bên trong và bên ngoài, nhất là hợp tác công tư, thu hút đầu tư nước ngoài có chọn lọc.
(3) Đẩy mạnh thực hiện đột phá chiến lược về phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao gắn với khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo để tạo nền tảng cho tăng NSLĐ.
"03 tiên phong" bao gồm:
(1) Tiên phong trong chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, phát triển kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, kinh tế tri thức, các ngành, lĩnh vực mới nổi, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
(2) Tiên phong trong hội nhập quốc tế, tận dụng tốt mọi cơ hội, phát huy tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
(3) Tiên phong trong các phong trào thi đua tăng NSLĐ, phát huy sáng kiến về quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh, cải tiến kỹ thuật, thúc đẩy mạnh mẽ các sáng kiến tăng năng suất lao động.
"03 bứt phá" bao gồm:
(1) Bứt phá về phát triển nguồn nhân lực, nhất là đào tạo nhân lực chất lượng cao và dạy nghề.
(2) Bứt phá về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là trong những ngành, lĩnh vực mới nổi như kinh tế số, kinh xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế tri thức, kinh tế chia sẻ, trí tuệ nhân tạo, chíp bán dẫn, hydrogen…
(3) Bứt phá về môi trường lao động, bảo đảm xanh, sạch, đẹp, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động.
* Về các nhiệm vụ, giải phát trọng tâm tăng NSLĐ:
Thủ tướng yêu cầu các cấp, các ngành, các địa phương và đề nghị Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Công đoàn các cấp cùng chung tay tập trung triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp về tăng NSLĐ theo các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; trong đó chú trọng một số nội dung trọng tâm sau:
Một là, ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng - coi đây là nền tảng để tăng NSLĐ (xuất phát từ công thức: NSLĐ xã hội = GDP/Lao động bình quân trong năm). Trong đó lưu ý gắn với ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn.
Hai là, đẩy mạnh thực hiện các đột phá chiến lược về thể chế, kết cấu hạ tầng, đặc biệt là nguồn nhân lực gắn với khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Ba là, tập trung nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo và dạy nghề ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành, lĩnh vực, bảo đảm đào tạo được nguồn nhân lực có chất lượng, số lượng, cơ cấu hợp lý.
Bốn là, đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu lao động từ phi chính thức sang chính thức, từ lĩnh vực nông nghiệp năng suất thấp sang lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ năng suất cao hơn.
Năm là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; nâng cao tỷ trọng các khu vực công nghiệp, dịch vụ, công nghiệp hoá nông nghiệp.
Sáu là, chăm lo, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động về đãi ngộ, tiền lương, phúc lợi xã hội, y tế, văn hóa, giáo dục, thể thao, đặc biệt là về nhà ở, triển khai tốt chương trình xây dựng 1 triệu căn hộ nhà ở xã hội.
* Đồng thời, Thủ tướng đề nghị Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam:
- Phát huy vai trò của tổ chức đại diện, nhất là vai trò tham gia quản lý xã hội, làm cầu nối thực hiện các hoạt động đối thoại chính sách, chia sẻ kinh nghiệm về tăng năng suất lao động.
- Phối hợp với Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội nghiên cứu, đề xuất xây dựng chương trình hỗ trợ, nâng cao kiến thức, trình độ chuyên môn, phát triển kĩ năng nghề cho người lao động.
- Thường xuyên trao đổi, đối thoại với cộng đồng doanh nghiệp, nhà đầu tư, người lao động, nhà nghiên cứu và kiến nghị giải pháp phù hợp.
- Chú trọng công tác thương lượng, đối thoại, ký kết và thực hiện thoả ước lao động tập thể.
- Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động người lao động nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng làm việc.
- Đổi mới công tác khen thưởng, thúc đẩy mạnh mẽ các sáng kiến tăng năng suất lao động, tôn vinh người lao động.
* Thủ tướng đề nghị cộng đồng doanh nghiệp:
- Phát huy hơn nữa vai trò của doanh nghiệp - chủ thể chính tạo ra của cải vật chất cho xã hội.
- Ứng dụng mạnh mẽ khoa học côn nghệ, nhất là công nghệ số, công nghệ xanh. Tăng NSLĐ, tăng giá trị chứ không phải tăng thời gian làm việc của người lao động.
- Quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của người lao động; chú trọng đào tạo, đào tạo lại; tạo dựng môi trường làm việc an toàn, sạch đẹp, xanh; có chế độ lương, thưởng đối với người lao động có nhiều sáng kiến, năng suất cao, chất lượng tốt.
* Thủ tướng đề nghị toàn thể anh chị em công nhân, người lao động:
- Phát huy hơn nữa vai trò của người lao động - chủ thể tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất, tạo ra của cải, vật chất và tinh thần cho xã hội. Không ngừng trau dồi, tự học tập nâng cao trình độ, kỹ năng, tay nghề, kinh nghiệm, khả năng thích ứng.
- Nâng cao tinh thần trách nhiệm, năng động sáng tạo, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả công việc. Đổi mới tác phong, ý thức chấp hành pháp luật và kỷ luật lao động, tạo môi trường lao động lành mạnh, bình đẳng, hiệu quả.
- Nâng cao kiến thức và kỹ năng làm việc; với nhận thức sâu sắc rằng NSLĐ gắn liền với thu nhập, chất lượng cuộc sống của chính bản thân, gia đình và mang lại lợi ích cho đất nước.
Kết thúc bài phát biểu, người đứng đầu Chính phủ nhấn mạnh: Nâng cao NSLĐ là nhiệm vụ quan trọng, vừa cấp bách, vừa mang tính chiến lược, lâu dài của cả hệ thống chính trị - là con đường ngắn nhất đưa nước ta bắt kịp, tiến cùng và vượt lên trong xây dựng, phát triển đất nước nhanh, bền vững.
Chúng ta mong muốn và tin tưởng rằng, với tinh thần "Công đoàn Việt Nam đồng hành với Chính phủ nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và phát triển bền vững đất nước", nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người lao động, tổ chức Công đoàn Việt Nam, toàn thể đoàn viên, người lao động cả nước sẽ chung tay, chung sức, đồng lòng cùng cả nước, phát huy truyền thống của dân tộc ta, đất nước ta "càng áp lực lại càng nỗ lực", huy động sức mạnh tổng lực của cả hệ thống chính trị, của mỗi người dân, phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược đến năm 2030 nước ta trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Trao quà của Thủ tướng Chính phủ tặng 95 đoàn viên, người lao động tiêu biểu trong cả nước có năng suất lao động cao, có nhiều sáng kiến, thành tích trong lao động sản xuất, thể hiện tình cảm, sự quan tâm, động viên, khích lệ của Thủ tướng Chính phủ đối với đoàn viên, người lao động. Con số 95 đoàn viên, người lao động được tặng quà tượng trưng cho 95 năm xây dựng và trưởng thành của tổ chức Công đoàn Việt Nam.
Diễn đàn "Nâng cao năng suất lao động Quốc gia năm 2024" do Tổng LĐLĐ Việt Nam tổ chức nhân dịp Tháng Công nhân năm 2024 thành công tốt đẹp./.