Tham gia tọa đàm có sự hiện diện của các đại biểu uy tín và giàu kinh nghiệm trong nhiều lĩnh vực liên quan đến thương mại điện tử (TMĐT) và quản lý thuế:
Bà Nguyễn Thị Lan Anh, Vụ trưởng Vụ Quản lý thuế doanh nghiệp nhỏ và vừa và hộ kinh doanh, cá nhân thuộc Tổng cục Thuế, Bộ Tài chính;
Ông Trần Minh Tuấn, Vụ trưởng Vụ Kinh tế số và Xã hội số, Bộ Thông tin và Truyền thông;
Bà Lại Việt Anh, Phó Cục trưởng Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số, Bộ Công Thương;
TS. Trần Mạnh Nam, Giám đốc Khối Doanh nghiệp của VNPAY;
PGS.TS Đinh Trọng Thịnh, chuyên gia kinh tế, nguyên Trưởng Khoa Tài chính Quốc tế, Học viện Tài chính.
Doanh thu thuế từ TMĐT tăng đều qua các năm: 83.000 tỷ đồng (2022), 97.000 tỷ đồng (2023) và chỉ trong 7 tháng đầu năm 2024 đã đạt hơn 78.000 tỷ đồng. Sự gia tăng mạnh mẽ này không chỉ đến từ các doanh nghiệp trong nước, mà còn từ các nền tảng quốc tế như Google, Facebook và Amazon.
Bên cạnh đó, Tổng cục Thuế đã chủ động triển khai nhiều biện pháp như xây dựng cơ sở dữ liệu quản lý thuế, phối hợp với các bộ, ngành trong việc chia sẻ dữ liệu và kết nối với UBND các tỉnh, thành phố. Đặc biệt, cơ sở dữ liệu từ các ngành như ngân hàng và viễn thông đã được đồng bộ, giúp công tác quản lý và thu thuế đạt hiệu quả cao hơn.
Tuy nhiên, TMĐT với tính linh hoạt và giao dịch xuyên biên giới vẫn đặt ra những thách thức mới. Do đó, tọa đàm sẽ là dịp để lắng nghe các đề xuất từ các chuyên gia nhằm tối ưu hóa giải pháp quản lý thuế và thúc đẩy sự phát triển bền vững của TMĐT.
6 giải pháp lớn của ngành thuế
MC: Để mở đầu chương trình tọa đàm, xin được gửi câu hỏi đầu tiên tới đại diện Tổng cục Thuế.
Thưa bà Nguyễn Thị Lan Anh, sự tăng trưởng nhanh của thị trường thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian qua là điều đáng mừng nhưng cũng đặt ra những thách thức mới đối với công tác quản lý thuế. Xin bà có thể chia sẻ khái quát những giải pháp mà Tổng cục Thuế đã triển khai nhằm tăng cường công tác quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử?
Bà Nguyễn Thị Lan Anh, Vụ trưởng Vụ Quản lý thuế doanh nghiệp nhỏ và vừa và hộ kinh doanh, cá nhân:
Để nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế đối với hoạt động TMĐT, thời gian qua Tổng cục Thuế đã và đang thực hiện các giải pháp đồng bộ, thống nhất như sau:
Thứ nhất là Tổng cục Thuế đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hỗ trợ hướng dẫn người nộp thuế tham gia hoạt động kinh doanh TMĐT thực hiện kê khai, nộp thuế theo quy định pháp luật. Ngoài ra, Tổng cục Thuế cũng đã phối hợp với các sàn trong nước, các nền tảng TMĐT nước ngoài tuyên truyền về nghĩa vụ thuế của các tổ chức, các nhân kinh doanh trên các nền tảng.
Thứ hai là ngành Thuế tiếp tục cung cấp các dịch vụ thuế điện tử để hỗ trợ việc kê khai, nộp thuế ở mức 4.0, bảo đảm người nộp thuế có thể thực hiện đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, cung cấp thông tin hoàn toàn theo hình thức điện tử.
Đặc biệt, trong thời gian tới, Tổng cục Thuế sẽ đưa vào vận hành Cổng thông tin điện tử dành cho các cá nhân, hộ kinh doanh phát sinh hoạt động kinh doanh TMĐT có thể thực hiện các nghĩa vụ thuế một cách thuận tiện. Đây cũng là kênh thông tin để cho người nộp thuế thực hiện theo đúng quy định pháp luật.
Ngoài ra, nhằm hỗ trợ hiệu quả các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh TMĐT thực hiện nghĩa vụ thuế theo đúng quy định, Tổng cục Thuế đã ban hành "Thư ngỏ" gửi đến các tổ chức, cá nhân kinh doanh TMĐT tại Việt Nam để trao đổi việc thực hiện nghĩa vụ thuế đối với hoạt động TMĐT và kinh doanh trên nền tảng số và cung cấp bộ tài liệu hướng dẫn về việc đăng ký thuế, kê khai, nộp thuế và danh sách email của các cơ quan thuế để người nộp thuế chủ động liên hệ khi có vướng mắc.
Thứ ba, ngành Thuế đã đề xuất giải pháp sửa đổi chính sách thuế một cách đồng bộ, thống nhất, không những thống nhất trong ngành thuế mà còn thống nhất trong các Bộ, ngành có liên quan đến hoạt động TMĐT. Đó là chúng tôi đề xuất bổ sung quy định pháp luật theo hướng tăng cường trách nhiệm của tổ chức là chủ sở hữu sàn giao dịch TMĐT, yêu cầu sàn giao dịch TMĐT có chức năng đặt hàng trực tuyến có trách nhiệm khấu trừ khai thuế thay, nộp thuế thay cho các cá nhân kinh doanh trên sàn giao dịch TMĐT. Giải pháp này góp phần cải cách thủ tục hành chính, giảm đầu mối kê khai thuế, đồng thời xét về tổng thể sẽ làm giảm chi phí tuân thủ thủ tục hành chính cho toàn xã hội do thay vì hàng chục nghìn cá nhân trực tiếp khai thuế với cơ quan thuế thì chỉ cần một đầu mối là sàn giao dịch thương mại điện tử khai, nộp thuế thay.
Ngoài ra, các sàn giao dịch TMĐT có chức năng đặt hàng trực tuyến nắm được đầy đủ các thông tin về người mua; thông tin về các giao dịch bán hàng thành công; thông tin về doanh thu, chi phí thông qua sàn của các tổ chức, cá nhân cung cấp hàng hóa, dịch vụ, do đó sàn TMĐT có thể thực hiện việc khai thuế thay, nộp thuế thay cho các cá nhân cung cấp hàng hóa, dịch vụ thông qua sàn một cách dễ dàng.
Thứ tư là ngành Thuế sẽ tiếp tục làm giàu cơ sở dữ liệu lớn về TMĐT, thu thập thông tin từ nhiều nguồn, đó là thông tin do sàn cung cấp, thông tin do các nền tảng xuyên biên giới cung cấp, thông tin thu thập được qua công tác kiểm tra, thông tin thu thập trên internet, thông tin kết nối chia sẻ từ các bộ ngành.
Trên cơ sở đó, chúng tôi thực hiện khai thác, xử lý thông tin để rà soát người nộp thuế đưa vào diện quản lý, yêu cầu kê khai phù hợp thực tế, điều chỉnh doanh thu hoặc xử lý truy thu.
Thứ năm là ngành Thuế sẽ xây dựng mô hình quản lý rủi ro đối với tổ chức, cá nhân kinh doanh thương mại điện tử, theo đó áp dụng trí tuệ nhận tạo (AI) để xử lý dữ liệu lớn, đưa ra các cảnh báo đối với trường hợp có rủi ro về thuế.
Thứ sáu là sẽ tiếp tục triển khai công tác thanh tra, kiểm tra trong toàn ngành, trong các tổ chức, các nhân kinh doanh thương mại điện tử; doanh nghiệp là chủ sàn kinh doanh thương mại điện tử; các đơn vị vận chuyển; trung gian thanh toán…
Và một giải pháp cuối cùng mà tôi cho rằng rất quan trọng đó là ngành Thuế sẽ phối hợp với bộ ngành chia sẻ, kết nối dữ liệu phục vụ quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử theo nhiệm vụ được giao tại Chỉ thị 18 của Thủ tướng Chính phủ, trong đó Bộ Công an cùng với cơ quan Thuế sẽ rà soát và đồng nhất Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư với Cơ sở dữ liệu mã số thuế; Bộ Công Thương sẽ cung cấp dữ liệu về sàn giao dịch TMĐT, Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ chia sẻ dữ liệu về các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực viễn thông, quảng cáo, phát thanh truyền hình; Ngân hàng Nhà nước sẽ thông tin về dòng tiền thanh toán, về tài khoản cá nhân.
Tốc độ tăng trưởng thương mại điện tử duy trì từ 20-25% một năm
MC: Thưa bà Lại Việt Anh, sau một năm triển khai Chỉ thị số 18 ngày 30/5/2023 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh kết nối, chia sẻ dữ liệu phục vụ phát triển thương mại điện tử và chống thất thu thuế, những điểm nào được ghi nhận trong việc cải thiện cơ sở hạ tầng dữ liệu và hiệu quả quản lý thuế trong lĩnh vực này? Bà đánh giá thế nào về tăng trưởng của thương mại điện tử ở Việt Nam thời gian qua, những đóng góp với nền kinh tế?
Bà Lại Việt Anh, Phó Cục trưởng Cục TMĐT và Kinh tế số, Bộ Công Thương:
TMĐT Việt Nam phát triển rất nhanh trong vòng 10-15 năm qua, đặc biệt 5 năm gần đây, tốc độ tăng trưởng duy trì từ 20-25% một năm, cách đây khoảng 10 năm, quy mô thị trường TMĐT bán lẻ của Việt Nam vào thời điểm đó đạt khoảng 2,2 tỷ USD, nhưng đến năm 2023, theo thống kê, đánh giá của Bộ Công Thương thì quy mô thị trường TMĐT bán lẻ đã đạt mức 20,5 tỷ USD, chiếm 8% tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng toàn quốc. Tỷ lệ này đang được dự đoán đạt 10% vào năm 2025.
Có thể nói, TMĐT phát triển nhanh và mạnh đã đóng góp rất tích cực cho việc phát triển mô hình thương mại khá hiện đại trong những năm qua, đặc biệt trong giai đoạn COVID-19 khi giãn cách xã hội và giảm sự tiếp xúc giữa các đối tượng. Đây là phương thức rất hiệu quả để có thể phân phối hàng hóa, dịch vụ đến với người tiêu dùng cuối. Đồng thời, đây cũng là kênh để các doanh nghiệp vừa, nhỏ, siêu nhỏ có thể tham gia kinh doanh, mở rộng thị trường, nâng cao thu nhập cũng như tăng sức cạnh tranh của mình trên thị trường trong và ngoài nước.
Tuy nhiên, với tốc độ tăng trưởng nhanh như thế, đặt ra bài toán phải phát triển bền vững. Đó là bảo đảm được sự cạnh tranh lành mạnh cũng như bảo đảm việc tuân thủ pháp luật của chủ thể tham gia thị trường, trong đó có chủ đề chúng ta bàn hôm nay, đó là việc tuân thủ nghĩa vụ về thuế.
Để nâng cao hiệu quả quản lý thuế, một trong những mấu chốt là việc xây dựng cơ sở dữ liệu quản lý một cách toàn diện và ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý.
Trên môi trường điện tử, hoạt động quản lý của chúng ta phải tận dụng tối ưu những công cụ trên môi trường trực tuyến, điện tử. Thực hiện Chỉ thị số 18/CT-TTg, trong hơn 1 năm qua, Bộ Công Thương đã phối hợp rất chặt với các cơ quan liên quan như Tổng cục Thuế, Bộ Tài chính, Bộ Thông tin và Truyền thông để ứng dụng công nghệ thông tin và phát triển cơ sở dữ liệu phục vụ cho quản lý thuế.
Chúng tôi đã xây dựng và hoàn thiện cơ sở dữ liệu dùng chung về TMĐT trên Cổng Thông tin quản lý về TMĐT (online.gov.vn), tại đó có dữ liệu khá đầy đủ về những doanh nghiệp sở hữu các website TMĐT bán hàng và các sàn giao dịch TMĐT đã thực hiện thủ tục thông báo và đăng ký với Bộ Công Thương.
Bộ Công Thương là cơ quan quản lý đối với chủ thể sở hữu các website và nền tảng TMĐT. Và chúng tôi đã tiến hành chia sẻ dữ liệu đó với cơ quan quản lý nhà nước về Công Thương ở tất cả các địa phương và hiện nay đang thực hiện việc kết nối, chia sẻ với Tổng cục Thuế.
Chúng tôi đã chia sẻ dữ liệu về hơn 1.000 chủ thể sở hữu nền tảng TMĐT ở dạng website hay dạng ứng dụng; tiến tới chia sẻ dữ liệu của khoảng 50.000 những chủ thể sở hữu website TMĐT bán hàng. Chúng tôi hy vọng rằng thông tin chia sẻ, kết nối, tiến tới đồng bộ hóa dữ liệu giữa các cơ quan quản lý nhà nước có thể tăng hiệu quả công tác quản lý, giúp giảm thời gian cho doanh nghiệp phải thực hiện thủ tục với nhiều cơ quan khác nhau.
Yếu tố thứ hai chúng tôi làm trong giai đoạn qua là ứng dụng công nghệ thông tin, những công nghệ mới phân tích dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo để giúp sàng lọc thông tin, giám sát hoạt động TMĐT trên môi trường trường trực tuyến và phát hiện hành vi sai phạm. Đây cũng là một công tác để có thể giúp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.
Ngoài ra, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật đối với các chủ thể kinh doanh cũng là một lĩnh vực rất quan trọng. Cùng đồng hành với Tổng cục Thuế, chúng tôi tổ chức rất nhiều chương trình nhằm phổ biến cho doanh nghiệp nắm rõ quy định pháp luật, những nghĩa vụ liên quan và hướng dẫn doanh nghiệp tuân thủ nghĩa vụ về thuế trong quá trình thực hiện kinh doanh trên môi trường trực tuyến.
Dữ liệu phải được bảo đảm đúng, đủ, sạch, sống
MC: Thưa ông, các phương pháp và công nghệ nào đã được triển khai cụ thể để nâng cao hiệu quả của việc chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan chức năng trong lĩnh vực thương mại điện tử, và chúng đã đóng góp như thế nào vào việc giảm thiểu tình trạng thất thu thuế sau 1 năm thực hiện Chỉ thị số 18? Vai trò của Công nghệ thông tin và các cơ sở dữ liệu để đạt được kết quả trong thời gian qua?
Ông Trần Minh Tuấn, Vụ trưởng Vụ Kinh tế số và Xã hội số, Bộ Thông tin và Truyền thông:
Bản thân chữ Thương mại điện tử có 2 vế. Vế thứ nhất là thương mại: bao gồm các hoạt động thương mại. Vế thứ hai là điện tử: được thực hiện hoàn toàn trên môi trường số. Do vậy, sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 18, Bộ Thông tin và Truyền thông đã nhanh chóng triển khai xây dựng kế hoạch với 7 nhóm và 25 nhiệm vụ cụ thể. Giao nhiệm vụ cho các đơn vị trong bộ để triển khai, hỗ trợ Tổng cục Thuế trong quá trình triển khai công tác thu thuế trên hoạt động thương mại Điện tử.
Đặc biệt, TMĐT của chúng ta có những môi trường đặc biệt vì môi trường số cũng có biên giới. Hầu như chúng ta mua hàng chúng ta cũng không biết rằng là hàng đó chúng ta đang mua của nhà cung cấp nước ngoài. Người tiêu dùng hoàn toàn không hề hay biết được điều đó, chỉ biết là sau khi mua hàng trả tiền xong có hàng hóa đến nhà. Nhưng thực ra, người tiêu dùng hiểu ra khi mua hàng nước ngoài có thể sàn TMĐT nước ngoài có thể trốn tránh nghĩa vụ thuế đối với Chính phủ Việt Nam. Trong khi đó tiêu dùng, toàn bộ mọi thứ trên lãnh thổ Việt Nam. Điều đó đặt ra cho Bộ Thông tin và Truyền thông những thách thức rất lớn.
Thứ nhất, chúng tôi đã ban hành những văn bản quy phạm pháp luật: Tháng 12/2023 đã ban hành khung Kiến trúc Chính phủ điện tử 3.0, Chính phủ số. Khung này đã thay cho khung Kiến trúc Chính phủ 2.0 năm 2019. Theo đó quy định toàn bộ những cấu trúc, mô hình nghiệp vụ, nghiệp vụ về dữ liệu, về an toàn thông tin, về tất cả các cấu trúc, để toàn bộ các bộ, ngành, địa phương có thể dựa trên khung Kiến trúc Chính phủ điện tử, xây dựng toàn bộ cấu trúc của các nghiệp vụ, của các dữ liệu và để trao đổi thông tin một cách thông suốt giữa các bộ, ngành, địa phương trên nền tảng tích hợp chia sẻ dữ liệu Quốc gia, nền tảng tích hợp chia sẻ dữ liệu của các bộ, ngành, địa phương.
Thứ hai, Nghị định 47 năm 2020 về kết nối các cơ sở dữ liệu và trao đổi dữ liệu giữa các cơ quan nhà nước, cũng như Nghị định 47 năm 2024 về cơ sở dữ liệu Quốc gia cũng đã quy định rất rõ về hoạt động của các cơ sở dữ liệu, về cách thức trao đổi dữ liệu trên toàn bộ hệ thống các cơ quan Nhà nước, bảo đảm cho dữ liệu được thông suốt, để đối soát dữ liệu phục vụ cho hoạt động giao dịch điện tử nói chung và thương mại điện tử nói riêng.
Thứ ba, về kết nối các cơ sở dữ liệu, đối với TMĐT có một số kết nối cơ sở dữ liệu như chị Lan Anh đã nói. Đặc biệt, quan trọng nhất là cơ sở dữ liệu của Tổng cục Thuế liên quan đến cơ sở dữ liệu về hóa đơn, cơ sở dữ liệu về thuế.
Cơ sở dữ liệu thứ hai rất quan trọng là cơ sở dữ liệu các tổ chức doanh nghiệp, cá nhân có hoạt động TMĐT.
Cơ sở dữ liệu thứ ba cũng rất quan trọng là cơ sở dữ liệu của Ngân hàng Nhà nước, kết nối toàn bộ hệ thống tài khoản của tổ chức, cá nhân để bảo đảm dòng tiền thông suốt.
Ngoài ra, cơ sở dữ liệu của Bộ thông tin và Truyền thông gồm: cơ sở dữ liệu của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ phát thanh - truyền hình; truyền hình trả tiền trong nước và xuyên biên giới; các nhà cung cấp dịch vụ quảng cáo; cơ sở dữ liệu của các doanh nghiệp bưu chính, chuyển phát, đó là một khâu trong TMĐT; cơ sở dữ liệu của các doanh nghiệp công nghệ số, sản xuất các thiết bị; đặc biệt các cơ sở dữ liệu liên quan đến các website có tên miền vn, có liên quan đến điện tử,..
Cuối cùng là cơ sở dữ liệu của Bộ Công an với hệ thống VNID rất hoàn thiện, có thể gắn kết được các chủ doanh nghiệp với VNID, giúp dữ liệu được xác thực một cách thông suốt, đấy là việc kết nối các cơ sở dữ liệu. Toàn bộ được thực hiện trên các nền tảng tích hợp và chia sẻ dữ liệu quốc gia, Bộ, ngành, địa phương.
Thứ tư, về dữ liệu, Bộ Thông tin và Truyền thông có hướng dẫn các Bộ, ngành, địa phương trong việc bảo đảm dữ liệu theo đúng quy định tại Nghị định 47 của Chính phủ quy định về cơ sở dữ liệu quốc gia. Thứ hai dữ liệu phải được làm sạch, phải được phân loại, dán nhãn, bảo đảm đúng, đủ, sạch, sống. Đặc biệt là loại bỏ những dữ liệu trùng lặp có liên quan, bảo đảm khi kết nối các cơ sở dữ liệu hoạt động hiệu quả.
Đối với những cơ sở dữ liệu đó, chúng ta áp dụng những công nghệ như chị Việt Anh nói, như Al, Blockchain,.. để chúng ta có thể phát hiện ra những hoạt động bất thường, phục vụ cho công tác thương mại điện tử thay đổi rất nhanh trên môi trường mạng.
Cuối cùng là công tác thanh tra, kiểm tra, bảo đảm dữ liệu luôn luôn đúng, đủ, sạch, sống, đó là trách nhiệm của Bộ Thông tin và Truyền thông trong việc xây dựng tiêu chuẩn như: bảo đảm kết nối liên thông các cơ sở dữ liệu phục vụ cho hoạt động thương mại điện tử.
Thanh toán điện tử song hành với phát triển TMĐT
Xin cho biết quy mô của VNPAY bây giờ là thế nào trên thị trường. Thanh toán điện tử là một trong những khâu quan trọng của thương mại điện tử. Là một trung gian thanh toán, ông có đánh giá như thế nào tại thị trường VN.
TS. Trần Mạnh Nam, Giám đốc Khối Doanh nghiệp VNPAY :
VNPAY là đơn vị trung gian thanh toán và cung cấp các nền tảng thanh toán số khá đa dạng cho người dùng, đáp ứng hầu hết các nhu cầu của người dùng bao gồm: thanh toán trực tuyến trên các website điện tử, thanh toán qua thiết bị POS, thanh toán QR.
Với thiết bị POS, có các hình thức tiếp xúc và không tiếp xúc, thì bây giờ phần lớn là không tiếp xúc để đảm bảo an ninh thông tin cũng như các vấn đề an toàn dịch bệnh sau đại dịch COVID-19.
Trong thanh toán nói chung và TMĐT nói riêng, tôi thấy rằng việc đưa ra các giải pháp thanh toán đảm bảo an toàn về an ninh thông tin của người sử dụng là yếu tố quan trọng, vì thế ngoài việc chúng tôi thường xuyên cập nhật tất cả các chứng chỉ liên quan đến thanh toán điện tử.
Chúng tôi cũng thường xuyên thuê các đơn vị có thể tư vấn điện tử, đánh giá hệ thống thông tin của VNPAY.
TMĐT bao gồm vấn đề về Logistics và thanh toán. Việc phát triển của thanh toán điện tử cũng đi song hành với phát triển TMĐT. Trong 5 năm gần đây, thanh toán điện tử phát triển vượt bậc với rất nhiều các phương thức thanh toán. Người dân bây giờ có thể sử dụng thanh toán điện tử trong hầu hết các nhu cầu thanh toán của họ. Đơn vị thụ hưởng quá trình thanh toán điện tử là ai? Trong thương mại điện tử thì đó chính là những người bán hàng, từ đó mình có thể xác minh được doanh thu của người bán hàng, cơ quan thuế có thể từ doanh thu đó hình thành nên nghĩa vụ thuế của người bán hàng.
Chúng ta nên bóc tách đâu là dòng tiền thương mại và dòng tiền phi thương mại của các chủ sở hữu để từ đó cơ quan thuế có thể xác định được đâu là trách nhiệm thuế, đâu là nghĩa vụ thuế của các đơn vị tham gia bán hàng.
Tôi cũng vừa tham gia một hội nghị tại Australia vào đầu tháng 9 vừa qua về thanh toán điện tử. Chúng tôi thấy rằng, với các nước phát triển, việc xác minh, bóc tách các dòng tiền thương mại đối với các tài khoản tham gia thương mại, họ đã triển khai từ lâu, từ đó các cơ quan đơn vị rất dễ dàng quản lý thu đúng thu đủ.
Thu thuế từ thương mại điện tử gia tăng nhờ đâu?
MC: Ở góc độ chuyên gia kinh tế, PGS.TS Đinh Trọng Thịnh có nhận định và đánh giá như thế nào về nỗ lực của ngành thuế và các cơ quan liên quan trong thời gian qua? Theo ông thì sự thay đổi không ngừng của các hình thức kinh doanh trên môi trường điện tử đang đặt ra những khó khăn, thách thức mới nào cho công tác quản lý thuế?
PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh:
TMĐT là hình thức kinh doanh mới trên thế giới, là hình thức thay đổi rất nhanh chóng, trong khoảng thời gian rất ngắn đã có những hình thức kinh doanh mới ra đời. Chính vì lẽ đó, việc quản lý TMĐT cũng gặp rất nhiều khó khăn. Việc làm sao thu đúng thu đủ, thu chính xác đối với hoạt động TMĐT trở thành khó khăn chung với hầu hết cơ quan thuế trên thế giới, kể cả những cơ quan thuế rất phát triển như Mỹ hay Liên minh châu Âu …ở Việt Nam, việc chúng ta nghiên cứu, đề ra các biện pháp thu đối với lĩnh vực này cũng chưa có gì mới.
Ngay từ những năm mới gần đây (năm 2021), chúng ta cũng chỉ thu một vài nghìn tỷ đồng từ thương mại điện tử này. Chỉ từ năm 2022 trở lại đây khi chúng ta có eTax Mobile, lúc đó chúng ta mới có được lượng thu tương đối lớn lên 90.000 tỷ đồng trong năm 2023. Đến năm 2024, mới có khả năng thu được trên 100.000 tỷ đồng.
Rõ ràng ở đây là sự cố gắng, nỗ lực của Tổng Cục thuế, cũng như các cơ quan ban ngành có liên quan như Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Công Thương hay Ngân hàng Nhà nước, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố, chính quyền các địa phương trong việc kết hợp để quản lý các đối tượng khác nhau trên địa bàn.
Đặc biệt trong thời gian gần đây, khi chúng ta có VneID của Bộ Công an thì việc tích hợp các dữ liệu của rất nhiều cơ quan đang tạo điều kiện thuận lợi cho không chỉ Tổng Cục thuế quản lý TMĐT này mà nó còn là điều kiện để chúng ta quản lý tốt hơn các lĩnh vực khác liên quan đến cả kinh tế và xã hội.
Đây là những nỗ lực chung của các cơ quan, ban ngành trong hoạt động kinh tế số, để chúng ta sớm quản lý được một lĩnh vực rất đa dạng và phong phú, khi chúng ta có quyết tâm xây dựng nền kinh tế số sớm hơn và tốt hơn.
Kinh nghiệm khai thuế, nộp thuế của các sàn TMĐT trên thế giới
MC: Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, để tăng cường công tác quản lý thuế đối với hoạt động TMĐT cần áp dụng cơ chế yêu cầu sàn TMĐT, nền tảng số khai thuế thay, nộp thuế thay cho người bán và cơ chế thu thập dữ liệu từ các nền tảng số, các sàn TMĐT và các đơn vị trong hệ sinh thái TMĐT. Những kinh nghiệm của quốc tế đã được ngành thuế áp dụng thế nào với thực tế của Việt Nam ?
Bà Nguyễn Thị Lan Anh, Vụ trưởng Vụ Quản lý thuế danh nghiệp nhỏ và vừa và hộ cá nhân, kinh doanh:
Chúng tôi qua tìm hiểu và nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế do World Bank và OECD chia sẻ, nhằm quản lý thuế hiệu quả đối với hoạt động TMĐT. Một số quốc gia đã áp dụng cơ chế yêu cầu Sàn TMĐT, nền tảng số khai thuế và nộp thuế thay các nhà cung cấp và cơ chế thu thập dữ liệu từ các nền tảng số, sàn TMĐT và các đơn vị trong hệ sinh thái TMĐT đối với người nộp thuế trong nước.
Theo kinh nghiệm quốc tế, việc quy định Sàn TMĐT, nền tảng số khai thuế thay, nộp thuế thay được áp dụng phổ biến trong việc quản lý thuế GTGT đối với các nhà cung cấp nước ngoài có giao dịch trên các sàn TMĐT hoặc các nền tảng số. Theo đó, nghĩa vụ kê khai, nộp thuế đối với các giao dịch qua sàn TMĐT hoặc nền tảng số thuộc về các sàn TMĐT hoặc các nền tảng số. Việc quy định như vậy sẽ giúp giảm rất nhiều gánh nặng tuân thủ đối với các nhà cung cấp, cũng như nâng cao hiệu suất, hiệu quả hoạt động của cơ quan quản lý thuế.
Một số quốc gia áp dụng cơ chế này đối với người nộp thuế trong nước. Chẳng hạn, Bỉ và Uruguay cũng áp dụng cơ chế thuế khấu trừ tại nguồn đối với nền kinh tế chia sẻ. Ngoài ra, tại một số bang của Mỹ đã yêu cầu một số sàn TMĐT lớn trên thế giới có trách nhiệm thu hộ và nộp thuế thay cho người bán (bao gồm cả người bán trong nước và nước ngoài).
Thực tiễn thế giới cũng cho thấy một số quốc gia áp dụng cơ chế thu thập dữ liệu từ các sàn TMĐT, nền tảng số nước ngoài. Quy định này được các quốc gia quy định khá phá biến.
Vào tháng 7/2020, OECD đã công bố các quy tắc mẫu được thiết kế để trở thành một phần của quy trình quốc tế nhằm thu thập và chia sẻ thông tin về các nhà cung cấp sử dụng nền tảng kỹ thuật số để bán dịch vụ.
Vào tháng 3/2021, Liên minh Châu Âu đã áp đặt một nghĩa vụ mới đối với các nhà vận hành nền tảng số phải báo cáo thông tin thu nhập của người bán hàng trên các nền tảng của họ và để các quốc gia thành viên tự động trao đổi thông tin này.
Một số quốc gia đã yêu cầu trực tiếp các nhà vận hành nền tảng ở nước ngoài cung cấp dữ liệu về các doanh nghiệp trong nước sử dụng các nền tảng đó. Tại Trung Quốc, cũng áp dụng quy định yêu cầu các sàn TMĐT khai báo thông tin về hoạt động mua bán, các thông tin về thuế có liên quan của các giao dịch cho cơ quan thuế và lưu trữ các thông tin này trong tối thiểu 3 năm.
Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và đánh giá tính khả thi, sự phù hợp khi triển khai tại Việt Nam, Tổng cục Thuế đã đề xuất một số nội dung trong quá trình sửa đổi Luật Quản lý thuế, Luật Thuế và các văn bản hướng dẫn theo hướng tăng cường trách nhiệm khai thuế thay, nộp thuế thay cho người bán tại nguồn của các sàn giao dịch TMĐT có chức năng đặt hàng trực tuyến, đồng thời tăng cường trách nhiệm cung cấp thông tin của các sàn TMĐT và các đơn vị cung cấp dịch vụ logistic.
Đồng bộ hóa các tiêu chí quản lý dữ liệu của ngành Công Thương và ngành Thuế
Trong thời gian qua, thực hiện Chỉ thị số 18 của Thủ tướng Chính phủ, việc kết nối, chia sẻ dữ liệu về các tổ chức, cá nhân kinh doanh trên các sàn thương mại điện tử giữa Bộ Công Thương và ngành Thuế đã được tăng cường. Tuy nhiên, trong các dữ liệu đã được chia sẻ thì vẫn còn có sự khác nhau về trạng thái hoạt động do các tiêu chí quản lý khác nhau. Điều này dẫn đến những hạn chế nhất định trong công tác phối hợp giữa hai đơn vị. Bà nhận định thế nào về thực tế này và giải pháp trong thời gian tới nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động phối hợp, phục vụ tốt cho công tác quản lý thuế nói riêng và công tác quản lý nhà nước đối với các sàn thương mại điện tử nói chung?
Bà Lại Việt Anh, Phó Cục trưởng Cục TMĐT và Kinh tế số, Bộ Công Thương:
Trong thời gian qua, để thực hiện Chỉ thị 18 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương đã phối hợp tích cực với cơ quan thuế để kết nối, chia sẻ dữ liệu. Tuy nhiên, sự khác nhau giữa trạng thái hoạt động giữa chủ thể quản lý dữ liệu thông tin vẫn còn những tồn tại. Sự khác nhau này là do những tiêu chí quản lý khác nhau giữa các cơ quan quản lý nhà nước.
Như tôi đã nói ở trên, Bộ Công Thương vừa quản lý, vừa thúc đẩy hỗ trợ thương mại điện tử phát triển. Chúng tôi quản lý những chủ thể sở hữu các website và các nền tảng thương mại điện tử. Và những tiêu chí của chúng tôi là chú trọng quản lý thông tin sản phẩm nhằm đảm bảo sự minh bạch của thông tin sản phẩm trên môi trường giao dịch thương mại điện tử. Chúng tôi cũng quản lý sự tuân thủ của quy trình giao dịch trên nền tảng giao dịch thương mại điện tử đó. Và cao hơn hết là chúng tôi cân bằng được trách nhiệm các bên khi tham gia giao dịch nhằm đảm bảo tốt nhất quyền lợi của người tiêu dùng trên môi trường trực tuyến.
Còn tiêu chí quản lý của Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế là quản lý nghĩa vụ thuế của tất cả các chủ thể kinh doanh trên môi trường thương mại điện tử.
Do các tiêu chí quản lý khác nhau, nên khi xây dựng cấu trúc về dữ liệu trong công tác quản lý dẫn đến sự khác nhau.
Và để khắc phục điều này, tôi cho rằng thời gian tới cần sự phối hợp tích cực giữa Bộ Công Thương, Bộ Tài chính (mà cụ thể là Tổng cục Thuế) trong việc đồng bộ hóa các tiêu chí quản lý dữ liệu từ 2 hệ thống sao cho đảm bảo đồng bộ ngay từ đầu. Và việc đồng bộ này cần phải thực hiện ngay từ khâu đầu tiên, đó là khởi tạo tài khoản của doanh nghiệp trên hệ thống quản lý hoạt động thương mại điện tử. Hiện nay, chúng tôi chủ trương là lấy mã số thuế của doanh nghiệp, của các hộ kinh doanh là trường dữ liệu chính. Và khi doanh nghiệp khởi tạo một tài khoản trên hệ thống của Bộ Công Thương thì ngay lập tức mã số thuế của doanh nghiệp sẽ được khớp nối, đối chiếu theo thời gian thực với dữ liệu của Tổng cục Thuế. Và việc đồng bộ hóa các tiêu chí dữ liệu cơ bản giữa 2 hệ thống của hai đơn vị, cũng như sự cập nhật thường xuyên dữ liệu sẽ giúp cho hiệu quả quản lý của hai cơ quan được tốt hơn.
Tạo thành bức tranh tổng thể về quản lý TMĐT đúng và đủ
MC: Thưa ông, từ thực tiễn công tác quản lý nhà nước trong thời gian qua, ông có thể chia sẻ những khó khăn trong hoạt động thu thập thông tin, dữ liệu liên quan đến TMĐT thuộc chức năng quản lý của Bộ TT&TT? Và trong thời gian tới Bộ sẽ tập trung vào các giải pháp nào để nâng cao hơn nữa hiệu quả việc kết nối, chia sẻ dữ liệu với ngành thuế?
Ông Trần Minh Tuấn, Vụ trưởng Vụ Kinh tế số và Xã hội số, Bộ Thông tin và Truyền thông:
Ngoài việc phối hợp giữa Bộ Công Thương và Bộ Tài chính trong đối soát thông tin liên quan đến người nộp thuế, về trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ Thông tin và Truyền thông chúng tôi có một số lĩnh vực sau:
Về hoạt động bưu chính và chuyển phát, đây là một khâu trong hoạt động TMĐT, chúng tôi có thể hỗ trợ Bộ Công Thương và Bộ Tài chính trong vấn đề kiểm tra, đối soát khi doanh nghiệp có hoạt động. Đối với TMĐT xuyên biên giới cũng vậy, doanh nghiệp vẫn phải có hoạt động bưu chính, hoạt động về hải quan, hoạt động ở các kho hàng, chúng ta có thể kiểm soát được từ đó.
Về phía Bộ Thông tin và Truyền thông, còn một số dịch vụ liên quan đến TMĐT, tuy nhiên, những hoạt động này không liên quan đến lĩnh vực chuyển phát, như hoạt động về quảng cáo số, phát thanh, truyền hình; truyền hình trả tiền.
Vừa rồi, chúng tôi có cung cấp cho Tổng cục Thuế, Bộ Tài chính các thông tin về 14 tổ chức, cá nhân ở nước ngoài có hoạt động quảng cáo xuyên biên giới; 24 tổ chức, cá nhân kinh doanh có hoạt động liên hệ với các tổ chức nước ngoài về quảng cáo số xuyên biên giới; 6 doanh nghiệp nước ngoài hiện đang cung cấp các dịch vụ phát thanh, truyền hình, truyền hình trả tiền từ nước ngoài. Và chúng tôi đối soát dữ liệu của 86 doanh nghiệp viễn thông về các số liệu hoạt động viễn thông, cơ sở dữ liệu tên miền .vn có hoạt động thương mại điện tử.
Có thể thấy, sự phối hợp đồng bộ của các bộ, ngành có liên quan: Bộ Tài chính, Bộ Công Thương, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Công an sẽ tạo thành bức tranh tổng thể để chúng ta có thể quản lý đúng và đủ.
Hiện nay chúng ta đã có những quy định mới từ Luật Giao dịch điện tử (quy định các nền tảng số cũng phải kết nối với các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực TMĐT), trong đó vai trò của Bộ Công Thương rất quan trọng trong kết nối giữa các nền tảng số với các nhà cung cấp, cơ quan quản lý nhà nước.
Khó khăn nữa liên quan đến hạ tầng điện toán đám mây, cơ sở dữ liệu, trung tâm dữ liệu. Hoạt động TMĐT phát triển rất nhanh (20-25%/năm), dữ liệu ngày càng nhiều, nếu chúng ta không có hệ thống cơ sở dữ liệu, hạ tầng thông tin tốt thì chúng ta sẽ không lưu đủ và kịp thời. Mô hình kinh doanh TMĐT hiện nay thay đổi rất nhanh, do vậy, dữ liệu cũng thay đổi rất nhanh, chúng ta phải luôn luôn cập nhật các mô hình, dữ liệu để có đối soát.
Về hướng giải quyết, theo Điều 47 Luật Giao dịch điện tử, tất cả doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực giao dịch điện tử nói chung và TMĐT nói riêng phải có trách nhiệm báo cáo định kỳ cho cơ quan quản lý nhà nước để có các dữ liệu phục vụ quản lý nhà nước về giao dịch điện tử.
Trên cơ sở đó, Bộ Thông tin và Truyền thông đã trình Thủ tướng Chính phủ Nghị định hướng dẫn Luật Giao dịch điện tử, đó là Nghị định về giao dịch điện tử trong cơ quan nhà nước và hệ thống thông tin phục vụ giao dịch điện tử, trong đó đã quy định rõ toàn bộ hệ thống giao dịch điện tử nói chung và TMĐT nói riêng có số lượng người sử dụng trên 3 triệu thì được coi là hệ thống giao dịch điện tử, TMĐT lớn và trên 10 triệu người sử dụng được coi là rất lớn, có trách nhiệm định kỳ hằng năm báo cáo các cơ quan nhà nước, đặc biệt, phải chia sẻ dữ liệu để phục vụ sự quản lý nhà nước cho giao dịch điện tử cũng như bảo đảm quyền lợi khách hàng.
Chúng tôi cũng đang xây dựng một thông tư về hệ thống tiếp nhận tổng hợp phục vụ quản lý nhà nước về TMĐT và giao dịch điện tử để hỗ trợ cho các bộ, ngành liên quan trong kết nối, chia sẻ dữ liệu và đặc biệt các dịch vụ TMĐT hay các mô hình kinh doanh có thay đổi thì phải sử dụng công cụ như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, blockchain để cập nhật, trên cơ sở đó xây dựng các tiêu chí về dữ liệu, trao đổi dữ liệu để phục vụ việc bám sát với những thay đổi rất nhanh về mô hình TMĐT.
Cần sớm hoàn thiện chính sách thuế
Từ góc độ chuyên gia, xin được biết ý kiến của ông thế nào trước quan điểm cho rằng chúng ta vẫn còn thất thu lớn từ những "ông lớn" như: Google, Facebook, YouTube… khi số thu thuế nhà thầu thông qua các tổ chức tại Việt Nam khai thay, nộp thay chỉ quanh ngưỡng 1.000 tỷ đồng trong khi doanh thu của những doanh nghiệp này là hàng tỷ USD mỗi năm? TS có kiến nghị đề xuất gì về giải pháp trong thời gian tới?
PGS. TS. Đinh Trọng Thịnh:
Trước hết chúng ta biết rằng trong thực tế, khi bắt đầu tăng cường quản lý và học hỏi kỹ hơn, ngay trong năm 2022 lượng thu thuế thương mại điện tử tăng lên một cách vượt bậc. Đặc biệt, những ông lớn như Google, Amazon,... lượng nộp thuế của họ từ chỗ rất nhỏ đến lúc có hàng ngàn tỷ đồng như hiện nay cũng đã là một bước tiến vượt bậc.
Tuy nhiên, doanh thu từ những ông lớn này ở trên thị trường Việt Nam là rất lớn, nhưng lượng thuế họ nộp chưa tương xứng. Rõ ràng chúng ta cần phải có cơ sở thống kê dữ liệu, các kho dữ liệu lớn và các phương pháp quản lý để từ đó chúng ta có bằng chứng để có thể thu đúng, thu đủ từ các ông lớn này.
Như Bộ Thông tin truyền thông đã nói, hàng hóa nhỏ di chuyển qua biên giới theo thống kê từ tháng 1 - 6/2024, mỗi tháng có từ khoảng 1,3 tỷ - 1,9 tỷ USD hàng hóa nhỏ qua biên giới không phải đóng thuế. Những hàng hóa này rõ ràng khi đóng thuế đã là một con số rất lớn. Bình quân một ngày khoảng 50 triệu USD vào, ra thị trường Việt Nam, nhưng chúng ta hoàn toàn miễn. Như vậy cơ chế chính sách của chúng ta đang không phù hợp.
Chúng ta thấy rằng, Liên minh châu Âu từ tháng 1/2021 đã bỏ quy định những hàng hóa có giá trị dưới 22 euro phải đóng thuế. Hay ví dụ như nước Anh, 135 bảng Anh trước đây không phải đóng thuế, bây giờ phải đóng thuế. Ngay bên cạnh chúng ta là Thái Lan, họ cũng đánh thuế đồng bộ tất cả hàng hóa ra - vào quốc gia mà đều phải chịu thuế suất 7%. Như vậy không kể nhỏ hay lớn. Nếu mỗi ngày chúng ta có 4 - 5 triệu đơn qua biên giới thì con số thất thoát rất lớn.
Vì thế hoàn chỉnh các cơ chế chính sách là việc cần làm ngay. Cơ chế chính sách của chúng ta phải phù hợp với từng điều kiện và theo đúng thông lệ. Năm 2010, bằng Quyết định 78, Chính phủ đề nghị không thu thuế đối với những khoản thu nhỏ dưới 1 triệu đồng để giải tỏa vấn đề thông quan và kiểm tra hải quan. Nhưng đến bây giờ, thời đại khác rồi, kinh tế số chỉ cần 1 giây là đã có đầy đủ, chúng ta không phải miễn cái đó.
Thứ hai, phải xây dựng cơ sở dữ liệu lớn, kho dữ liệu. Vì kho này không chỉ phục vụ cho cơ quan thuế để thu đúng, thu đủ, mà còn phục vụ cho việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng như việc bảo vệ an sinh xã hội. Cho nên việc chúng ta xây dựng cơ sở dữ liệu, xây dựng kho dữ liệu về thương mại điện tử là việc làm cần thiết và cấp bách.
Tiếp theo là việc ứng dụng công nghệ, chúng ta phải dùng chính công nghệ mới và công nghệ số để quản lý hoạt động thương mại điện tử. Lúc đó chúng ta mới quản lý phù hợp và chặt chẽ.
Điều tiếp theo, là việc tuyên truyền để người kinh doanh chủ động nộp thuế đúng, đủ cho nhà nước. Đó là điều chúng ta phải thực thi. Trên cơ sở như vậy, kể cả các chủ thể không có thể nhân ở Việt Nam nhưng người Việt Nam tiêu dùng hàng hóa của họ vẫn có đòi hỏi, buộc họ phải nộp thuế cho Chính phủ Việt Nam là một điều mỗi người dân cần phát huy điều đó.
Chúng tôi cho rằng kết hợp giữa các Bộ, ban, ngành, kết hợp giữa tuyên truyền, quảng cáo và ý thức của người dân đối với hoạt động quản lý và thu thuế từ thương mại điện tử sẽ là cơ sở chúng ta có thể quản lý thương mại điện tử một cách phù hợp và sâu sát hơn.
Đề xuất đánh thuế GTGT với hàng hóa nhỏ lẻ
Thưa bà, việc triển khai Nghị định về hóa đơn điện tử sẽ góp phần cải thiện hiệu quả quản lý thuế và nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh TMĐT như thế nào?
Bà Nguyễn Thị Lan Anh:
Bộ Tài chính cũng đang trình Chính phủ sửa Nghị định 12, trong đó, chúng tôi có đề xuất quản lý đối với TMĐT, đó là việc các tổ chức, cá nhân, các hộ kinh doanh có thể ủy quyền cho các sàn giao dịch điện tử để các sàn này có thể xuất hóa đơn thay cho người kinh doanh thông qua sàn. Thông qua giải pháp này, tất cả các giao dịch TMĐT dù lớn hay nhỏ, giá trị bao nhiêu cũng sẽ được xuất hóa đơn đầy đủ.
Xuất hóa đơn đầy đủ sẽ hỗ trợ quản lý thuế, quản lý doanh thu và quản lý giao dịch có hợp pháp hay không, giúp người bán hàng chứng minh được nguồn gốc hàng hóa, lúc đó hàng hóa trong thị trường Việt Nam có thể nâng cao tính cạnh tranh, chống hàng giả, hàng nhái và hàng kém chất lượng trên thị trường, đặc biệt là sẽ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, góp phần tạo điều kiện tạo thị trường cạnh tranh lành mạnh.
GS Thịnh cũng đã nói về các quy định về chính sách pháp luật. Ngoài quy định về hóa đơn này tôi cũng trao đổi thêm, Bộ Tài Chính cũng trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung Luật Thuế giá trị gia tăng (GTGT).
Trong tờ trình, có đề xuất bỏ quy định miễn thuế GTGT với hàng hóa nhỏ lẻ. Cũng không chỉ Việt Nam mà tất cả các nước trên thế giới cũng đang chú ý đến việc này và họ cũng có đề xuất như vậy. Dự thảo Luật Thuế GTGT trình Chính phủ đã đưa quy định đó vào để làm sao hoàn thiện chính sách với hoạt động TMĐT.
Triển khai hóa đơn điện tử là cải cách rất lớn của ngành thuế
Từ phía doanh nghiệp, VNPAY trong quá trình triển khai nghị định về hoá đơn điện tử có gặp phải thách thức gì không? Nếu có thì ông có giải pháp gì để có thể đề xuất để nhận được hỗ trợ từ phía cơ quan quản lý thuế?
TS. Trần Mạnh Nam:
Triển khai Nghị định 123/2020/NĐ-CP của Chính phủ cũng như Thông tư 78/2021/TT-BTC của Bộ Tài chính về việc triển khai hoá đơn điện tử, VNPAY đã nỗ lực triển khai và thấy rằng đây là cải cách rất lớn của ngành thuế.
Đối với doanh nghiệp như chúng tôi, đây là động lực thức đẩy chuyển đổi số trong doanh nghiệp. Sau quá trình làm, chúng tôi nhận ra rằng việc khai báo, cung cấp hoá đơn bán hàng của doanh nghiệp được triển khai nhanh chóng, chính xác và từ đó tối ưu về nguồn lực và nhân sự cho vấn đề liên quan đến kê khai thuế.
Việc khuyến khích xuất hoá đơn điện tử tại đúng thời điểm bán hàng hoặc xuất hoá đơn trong ngày cần phải được khuyến khích vì sẽ giúp cho cơ quan thuế nắm được tình hình giao dịch của các doanh nghiệp bán hàng, từ đó đưa ra các phương án hỗ trợ cho doanh nghiệp cũng như có phương án quản lý thuế phù hợp, như các đại biểu đã nêu là đúng và đủ.
Tạo thuận lợi cho người nộp thuế kinh doanh TMĐT
Được biết là ngành thuế trong thời gian tới sẽ tiếp tục triển khai, nâng cấp các ứng dụng hỗ trợ người nộp thuế nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người nộp thuế, đặc biệt với cá nhân bán hàng online? Vậy bà có thể chia sẻ rõ hơn về vấn đề này?
Bà Nguyễn Thị Lan Anh:
Trong thời gian qua, với mục tiêu lấy người dân, doanh nghiệp là trung tâm, chủ thể, mục tiêu, động lực của chuyển đổi số, Tổng cục Thuế đã không ngừng mở rộng triển khai các dịch vụ thuế điện tử bao gồm: khai thuế, nộp thuế, hoàn thuế điện tử đảm bảo cấp độ 4.0, hỗ trợ tra cứu thông tin nghĩa vụ thuế nhằm tạo thuận lợi cho người nộp thuế nói chung, người nộp thuế kinh doanh TMĐT nói riêng trong việc chấp hành nghĩa vụ thuế.
Về kê khai điện tử, tại Cổng thông tin thương mại điện tử (https://thuongmaidientu.gdt.gov.vn) cũng đã thiết kế chức năng hỗ trợ hộ, cá nhân kinh doanh trực tiếp khai thuế theo hình thức điện tử mà không cần trực tiếp đến cơ quan thuế.
Về nộp thuế điện tử, hộ, cá nhân kinh doanh có thể nộp thuế điện tử qua ứng dụng điện tử eTax Mobile do ngành thuế triển khai từ tháng 12/2021.
eTax Mobile được thiết kế, phát triển là một ứng dụng trên thiết bị di động hỗ trợ người nộp thuế tra cứu thông tin về nghĩa vụ thuế và nộp thuế điện tử nhanh chóng tiện lợi, giảm thiểu thời gian, chi phí của các hộ, cá nhân kinh doanh, dữ liệu được hạch toán đầy đủ, chính xác, kịp thời.
Tổng cục Thuế vừa công bố phiên bản mới nhất của ứng dụng eTax Mobile 3.2.0 ngày 26/08/2024, mang đến nhiều tiện ích vượt trội giúp người nộp thuế thao tác nhanh chóng, dễ dàng và an toàn hơn. Sự ra mắt ứng dụng eTax Mobile là bước tiến trong công tác quản lý và thanh toán thuế, đánh dấu bước chuyển mình mạnh mẽ của ngành Thuế trong việc đẩy mạnh hiện đại hóa và chuyển đổi số, tạo sự gắn kết giữa cơ quan thuế và người nộp thuế.
Đặc biệt, nhằm hỗ trợ cho người nộp thuế kinh doanh TMĐT thuận lợi trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế, trong thời gian qua, Tổng cục Thuế đã vận hành Cổng thông tin điện tử dành cho nhà cung cấp nước ngoài nhằm hỗ trợ các nhà cung cấp nước ngoài có thể thực hiện đăng ký thuế, kê khai, nộp thuế trực tiếp từ bất cứ đâu trên thế giới. Đồng thời, ngành Thuế cũng đang nghiên cứu xây dựng Cổng thông tin điện tử dành cho hộ, cá nhân kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh trên nền tảng số đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, qua đó cung cấp thêm cho hộ, cá nhân kinh doanh TMĐT 01 kênh thuận tiện, dễ dàng thực hiện nghĩa vụ thuế của mình.
Bằng những giải pháp trên, Tổng cục Thuế mong muốn sẽ góp phần xây dựng một xã hội số minh bạch hơn, thuận tiện và giảm thời gian, chi phí tuân thủ cũng như những rủi ro cho người dân, doanh nghiệp, đặc biệt là người nộp thuế kinh doanh TMĐT.
Đặt hàng qua mạng xã hội là thách thức lớn cho công tác thu thuế
MC: Thưa bà Lại Việt Anh, trong các giải pháp mà đại diện Tổng cục Thuế vừa chia sẻ, có thể thấy giải pháp về công nghệ thông tin sẽ đem lại lợi ích lớn và mang lại tính quyết định, nhưng đây là giải pháp đòi hỏi sự phối hợp của nhiều bộ, ngành và yêu cầu đầu tư hạ tầng công nghệ, tính bảo mật hay các nguồn lực đi kèm. Từ góc độ của mình, bà có kiến nghị, đề xuất, tham mưu gì để nâng cao hiệu quả của thương mại điện tử ở Việt Nam và bảo đảm hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội cũng như thu đúng, thu đủ đối với các nguồn thu từ thương mại điện tử?
Bà Lại Việt Anh, Phó Cục trưởng Cục TMĐT và Kinh tế số Bộ Công Thương:
Từ chia sẻ của các diễn giả đã trình bày ở trên thì chúng ta đều thấy bài toán về quản lý thương mại điện tử nói chung, cũng như quản lý thuế trong thương mại điện tử nói riêng là một bài toán rất phức tạp, bởi nó đang liên quan đến rất nhiều các bộ, ngành.
Chẳng hạn liên quan đến hóa đơn là Bộ Tài chính, đối với hàng hóa giao dịch qua biên giới là Hải quan, liên quan đến dịch vụ nội dung số là Bộ Thông tin và Truyền thông, chuyển phát liên quan đến Cục Bưu chính, khâu thanh toán liên quan đến Ngân hàng Nhà nước... Cho nên, mấu chốt nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong giao dịch thương mại điện tử chính là cơ chế phối hợp, sự chia sẻ thông tin giữa tất cả các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan.
Trong công tác phối hợp hiện có hai nội dung. Đó là phối hợp trong việc xây dựng chính sách và phối hợp trong việc chia sẻ, kết nối dữ liệu.
Chúng ta thấy việc xây dựng một hệ thống dữ liệu đồng bộ, toàn diện và đầy đủ là một trong những yếu tố quyết định thành công trong việc phát triển thương mại điện tử.
Bên cạnh đó việc xây dựng một khung pháp lý đầy đủ, đồng bộ cho vấn đề này là rất cần thiết. Vì thế cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế đầy đủ, cụ thể, áp dụng đối với từng chủ thể, nhằm đảm bảo phù hợp với các thông lệ quốc tế, phù hợp với các các đặc thù của Việt Nam.
Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải bảo đảm sự bình đẳng giữa các chủ thể khi tham gia thị trường này.
Chúng ta đều biết, giao dịch thương mại điện tử là một lĩnh vực không biên giới, mà hiện nay doanh nghiệp Việt Nam cũng đang cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài trên chính thị trường Việt Nam. Vì thế, chúng ta cần phải có các quy định nhằm bảo đảm sự bình đẳng đối với các nền tảng số đang cung cấp các dịch vụ cho thị trường xuyên biên giới mà không hiện diện ở Việt Nam. Việc này sẽ khuyến khích sự phát triển cho cả doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Có một điều mà tôi muốn nhấn mạnh đó là việc ứng dụng công nghệ trong công tác quản lý. Bởi thực tế hiện nay, có nhiều trường hợp đặt hàng không qua các sàn thương mại điện tử, mà đặt hàng qua các mạng xã hội, các nền tảng không có chức năng đặt hàng trực tuyến, đây là một thách thức rất lớn đối với công tác quản lý thuế.
Vì thế, chúng tôi kỳ vọng rất lớn vào hệ thống công nghệ thông tin mà Bộ Thông tin và Truyền thông đang xây dựng, để từ đó có thêm một mảng dữ liệu để quản lý thuế trong lĩnh vực thương mại điện tử này.
Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải đẩy mạnh tuyên truyền và hỗ trợ người nộp thuế trong hoạt động thương mại điện tử, để người nộp thuế thấy được trách nhiệm và nghĩa vụ khi tham gia các giao dịch này. Bởi chúng ta đã thấy, chúng ta không thể dựa hoàn toàn vào các nền tảng số, bởi người tham gia thương mại điện tử hiện nay kinh doanh trên rất nhiều các nền tảng. Chừng nào các chủ thể kinh doanh không nhận thức được trách nhiệm và nghĩa vụ trước pháp luật thì chúng ta vẫn còn những khoảng trống thất thoát thuế.
Có các chế tài cụ thể
Từ quan điểm của Bộ Thông tin và Truyền thông, ông có thể chia sẻ ý kiến về cách mà công nghệ thông tin đang hỗ trợ thương mại điện tử, và làm thế nào chúng ta có thể tối ưu hóa những nền tảng hạ tầng đã và sẽ xây dựng để hỗ trợ việc thu thuế trong lĩnh vực thương mại điện tử?
Ông Trần Minh Tuấn, Vụ trưởng Vụ Kinh tế số và Xã hội số, Bộ Thông tin và Truyền thông:
Những hệ thống mà bà Lan Anh và bà Việt Anh đã đề cập (hệ thống các website, ứng dụng E-Tax mobile…) đều phải chạy trên một nền tảng số, hạ tầng số mà Bộ Thông tin và Truyền thông đang được Chính phủ giao quản lý và khai thác.
Vừa qua, Bộ Thông tin và Truyền thông đã cập nhật khung kiến trúc của hạ tầng số, theo đó có 2 cấu phần hết sức quan trọng cho vấn đề kiểm soát việc giám sát TMĐT cũng như quản lý TMĐT tốt.
Thứ nhất là hạ tầng dữ liệu. Hạ tầng dữ liệu phải được hiểu là toàn bộ hệ thống trung tâm dữ liệu.
Hiện nay chúng tôi đang phối hợp rất chặt với Bộ Công an trong xây dựng khung kiến trúc Chính phủ điện tử của Trung tâm dữ liệu quốc gia, để trong tháng 9/2024 có thể kết nối Trung tâm dữ liệu quốc gia với Trung tâm dữ liệu của các bộ ngành, địa phương.
Trên cơ sở hạ tầng dữ liệu có sẵn, chúng ta có thể triển khai các hệ thống như hệ thống tiếp nhận và tổng hợp dữ liệu phục vụ cho cơ quan quản lý nhà nước về giao dịch điện tử nói chung, TMĐT nói riêng để các nền tảng số kết nối vào và chúng ta quy định chi tiết trách nhiệm của các nền tảng số để có thể báo cáo và thu thập dữ liệu, gửi các cơ quan nhà nước.
Thứ hai, Bộ Thông tin và Truyền thông đưa thêm một khái niệm là hạ tầng tiện ích số và cung cấp công nghệ dịch vụ. Tiện ích số được hiểu là những tiện ích cơ bản cho hoạt động trên môi trường số: định danh số, chữ ký số, đặc biệt là thanh toán số và các dịch vụ liên quan đến thuế. Bộ Thông tin và Truyền thông coi đó là những tiện ích không thể thiếu trên môi trường mạng.
Trên cơ sở đó, chúng ta có thể liên thông về chiều ngang, không chỉ giữa các bộ, ngành, địa phương mà sẽ tiến tới liên thông với quốc tế, trên cơ sở đó chúng ta có thể thu đúng, thu đủ.
Về các vấn đề liên quan ứng dụng công nghệ thông tin, các mô hình mới như bà Việt Anh đề cập, Bộ Thông tin và Truyền thông đã hướng dẫn và chỉ đạo các doanh nghiệp viễn thông, doanh nghiệp công nghệ số lớn của Việt Nam như Vietel, VNPT, FPT, CMC ứng dụng các giải pháp tiên tiến: trí tuệ nhân tạo, blockchain, phân tích dữ liệu lớn để hỗ trợ việc giám sát và thu thuế trong TMĐT. Các công nghệ này sẽ giúp tối ưu hóa và theo dõi các hoạt động kinh doanh, nhận diện được các giao dịch ẩn, xác định chính xác doanh thu của doanh nghiệp.
Cuối cùng, khi chúng ta tuyên truyền đúng, đủ mà các doanh nghiệp vẫn tiếp tục có những hành vi vi phạm pháp luật về thương mại điện tử, pháp luật về thuế thì chúng ta buộc phải có những biện pháp mạnh tay trong vấn đề thu hồi website, thu hồi giấy phép đã cung cấp.
Chúng ta có thể căn cứ các quy định của pháp luật viễn thông để xử phạt, tạo ra môi trường kinh doan lành mạnh. Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ phối hợp với ngành Tài chính, Công Thương, Ngân hàng Nhà nước để thực hiện đồng bộ các giải pháp.
Từ phía đơn vị cung cấp các giải pháp thanh toán điện tử, ông có kiến nghị, đề xuất gì để vừa tạo thuận lợi cho các hoạt động thanh toán điện tử nói riêng, TMĐT nói chung tại Việt Nam phát triển, vừa bảo đảm thu đúng, thu đủ đối với các nguồn thu từ các giao dịch điện tử? Để doanh nghiệp như của VNPAY phát triển, Ông cần gì từ phía các cơ quan quản lý?
TS. Trần Mạnh Nam, Giám đốc Khối Doanh nghiệp VNPAY
Việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu lớn rất cần thiết. Tuy nhiên chúng ta cần nhìn nhận rằng đó là một hệ thống cực kỳ phức tạp. Mỗi một bộ, ngành đều có những nghiệp vụ chi tiết rất phức tạp. Thế nên, chúng ta yêu cầu hệ thống ngay từ đầu có thể đáp ứng được toàn bộ và tối ưu là một điều rất khó khăn.
Là một đơn vị làm về công nghệ, tôi nghĩ rằng chúng ta có thể chia thành các giai đoạn khác nhau. Trong giai đoạn đầu tiên, chúng ta có thể lựa chọn những thông tin cơ bản, thông tin đơn giản để có thể hình thành thông tin của một doanh nghiệp. Ví dụ như mã số thuế, tài khoản thụ hưởng, các thông tin liên quan,... Chúng ta sẽ dựa vào đó để có các căn cứ cho cơ quan quản lý thuế có thể quản lý, nắm bắt được thông tin.
Bên cạnh đó, tôi mong muốn có sự chia sẻ liên ngành. Từ đó đứng trên vai trò quản lý, Chính phủ cũng sẽ nhìn nhận được những xu hướng của thị trường, sẽ thấy rằng nền kinh tế đang dịch chuyển từ những sản phẩm giá trị lớn sang những sản phẩm giá trị nhỏ, hoặc từ ngành hàng FMCG (ngành cung cấp toàn bộ các loại hàng hóa tiêu dùng thiết yếu trong cuộc sống hàng ngày) sang một ngành hàng khác. Từ đó có những thông tin, những chia sẻ, những định hướng ngược lại cho doanh nghiệp.
Là doanh nghiệp, chúng tôi hiểu được xu thế bây giờ đang là như thế, từ đó có những hoạt động tương ứng để làm sao phù hợp với sự phát triển của thị trường, của xã hội.
Hoạt động thương mại điện tử sẽ dần đi vào nền nếp
Xin hỏi PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh, từ góc nhìn của chuyên gia, theo ông, đâu là những yếu tố công nghệ cần được chú trọng để tối ưu hóa việc quản lý thuế trong thương mại điện tử, và làm sao để hài hòa lợi ích giữa Nhà nước và doanh nghiệp trong bối cảnh phát triển nhanh chóng của lĩnh vực này?
PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh:
Lĩnh vực thương mại điện tử phát triển rất nhanh trong thời gian vừa qua và thời gian tới lĩnh vực này tiếp tục phát triển nhanh và đem lại lợ ích lớn cho nền kinh tế. Tuy nhiên việc quản lý nó cũng là một vấn đề chứa đựng nhiều khó khăn, phức tạp.
Về phía các cơ quan chức năng, đã có sự thay đổi cũng như đã có sự tích hợp, kết hợp với nhau, tuy nhiên việc này phải làm dần dần để hoàn thiện, bởi bản chất vấn đề là làm sao chúng ta phải xây dựng được cơ sở dữ liệu và sự kết nối giữa các bộ, ban, ngành một cách tốt nhất.
Việc xuất hoá đơn điện tử có ý nghĩa rất quan trọng, vừa bảo đảm tính công bằng, bình đẳng giữa các chủ thể tham gia kể cả trên hoạt động thương mại điện tử lẫn trong hoạt động truyền thống, đồng thời cũng bảo đảm quyền lợi cho người tiêu dùng khi có hoá đơn để có thể khiếu tố, phản hồi, từ đó bảo đảm cho hoạt động thương mại điện tử tốt nhất.
Quản lý thương mại điện tử là quản lý số, chúng ta phải số hoá ở mức hiện đại nhất để quản lý hoạt động thương mại điện tử, lúc đó mới đem lại hiệu quả.
Với quyết tâm và sự vào cuộc rất quyết liệt của Chính phủ, của các bộ, ban, ngành có liên quan, sự vào cuộc của chính quyền các địa phương thì hoạt động thương mại điện tử sẽ dần đi vào nền nếp, việc thu thuế cũng như tính toán doanh thu và các vấn đề có liên quan đến lĩnh vực thương mại điện tử sẽ ngày một hoàn thiện tốt hơn.
Cổng TTĐT Chính phủ