
Bộ Tư pháp đang dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa và xử lý văn bản quy phạm pháp luật (QPPL).
Mục 2 Chương II của dự thảo quy định về tự kiểm tra văn bản QPPL, gồm các nội dung về: Tự kiểm tra văn bản do Chủ tịch nước, Đoàn chủ tịch Uỷ ban Trung ương mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng kiểm toán nhà nước ban hành hoặc liên tịch ban hành; Tự kiểm tra văn bản do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành; Tự kiểm tra văn bản do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp, chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt ban hành; Trình tự, thủ tục tự kiểm tra văn bản; Hồ sơ tự kiểm tra văn bản QPPL.
Mục này cơ bản kế thừa và hoàn thiện các quy định tại Mục 2 Chương VIII của Nghị định 34/2016/NĐ-CP hiện hành, đồng thời quy định một số nội dung mới, cụ thể:
(i) Căn cứ quy định tại Điều 63 của Luật năm 2025, dự thảo Nghị định đã bổ sung trách nhiệm tự kiểm tra văn bản QPPL do mình ban hành của các chủ thể: Chủ tịch nước, Đoàn chủ tịch Uỷ ban Trung ương mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng kiểm toán nhà nước ban hành hoặc liên tịch ban hành; tự kiểm tra văn bản do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành để phù hợp với Luật năm 2025.
(ii) Quy định Bộ trưởng,Thủ trưởng cơ quan ngang bộ có trách nhiệm giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thực hiện tự kiểm tra văn bản QPPL của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đối với văn bản do bộ, cơ quan ngang bộ chủ trì soạn thảo, trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành hoặc liên tịch ban hành.
(iii) Quy định Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện trách nhiệm tự kiểm tra văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong các trường hợp: Khi nhận được yêu cầu, chỉ đạo của cơ quan,người có thẩm quyền; hoặc khi văn bản đã được các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ khác thực hiện tự kiểm tra nhưng Bộ Tư pháp vẫn nhận được kiến nghị, phản ánh.
(iv) Quy định về hồ sơ tự kiểm tra văn bản.
(v) Bỏ quy định việc tự kiểm tra văn bản của chính quyền cấp xã để phù hợp với quy định của Luật năm 2025 về việc không quy định thẩm quyền ban hành văn bản QPPL của cấp xã.
Bổ sung các trường hợp văn bản được xác định là trái pháp luật
Mục 1 Chương II dự thảo quy định những vấn đề chung về kiểm tra, xử lý văn bản QPPL, gồm các nội dung: Nguyên tắc kiểm tra, xử lý văn bản; Văn bản thuộc đối tượng kiểm tra; Nội dung kiểm tra văn bản; Căn cứ pháp lý để xác định văn bản trái pháp luật, văn bản sai sót về căn cứ ban hành, thể thức, kỹ thuật trình bày; Văn bản thuộc đối tượng xử lý; Tiếp nhận, xử lý kiến nghị, phản ánh của cơ quan, tổ chức, cá nhân về văn bản có dấu hiệu trái pháp luật.
Mục này cơ bản kế thừa và hoàn thiện các quy định tại Mục 1 Chương VIII (về kiểm tra, xử lý văn bản QPPL) của Nghị định 34/2016/NĐ-CP hiện hành, đồng thời quy định bổ sung các trường hợp văn bản được xác định là trái pháp luật, đó là:
(i) Văn bản QPPL vi phạm một trong các quy định về đăng tải dự thảo, lấy ý kiến, thẩm định, thẩm tra.
(ii) Văn bản có dấu hiệu chứa QPPL nhưng không được ban hành đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục theo quy định của Luật năm 2025.
(iii) Văn bản hướng dẫn áp dụng văn bản QPPL vi phạm khoản 2 Điều 61 của Luật năm 2025 là văn bản trái pháp luật; (tại khoản 1 Điều 7 dự thảo Nghị định).
Theo Bộ Tư pháp, việc xây dựng dự thảo Nghị định nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý để tăng cường chất lượng, hiệu lực, hiệu quả đối với công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa và xử lý văn bản QPPL nhằm kịp thời phát hiện, xử lý quy định trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo, không phù hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
Dự thảo Nghị định gồm 05 chương, 63 điều và 01 phụ lục (04 Biểu mẫu) kèm theo; nội dung có kế thừa quy định tại Nghị định hiện hành, đồng thời có chỉnh lý, bổ sung hoặc cơ cấu lại cho phù hợp với tình hình thực tiễn thực hiện công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hoá và xử lý văn bản QPPL, bảo đảm tính logic, hợp lý, dễ tiếp cận; đồng thời, bổ sung các nội dung nhằm quy định chi tiết Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025.