
Toàn cảnh Phiên thảo luận Tổ 16.
Tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội thảo luận ở Tổ về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng. Đại biểu Lý Thị Lan - Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Tuyên Quang điều hành thảo luận Tổ 16.
Thảo luận ở Tổ về dự án Luật này, các đại biểu cho biết, ngày 26/11/2024, Quốc hội đã ban hành Luật Thuế giá trị gia tăng số 48/2024/QH15, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025.
Qua triển khai thực hiện, các Hiệp hội và doanh nghiệp đã phản ánh vướng mắc về chính sách thuế giá trị gia tăng (GTGT) đối với lĩnh vực nông nghiệp, thức ăn chăn nuôi và điều kiện hoàn thuế.
Vì vậy, các ý kiến khẳng định, việc sửa đổi, bổ sung Luật Thuế giá trị gia tăng ngay tại Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XV là cấp bách và cần thiết; đồng thời để giải quyết ngay những vấn đề vướng mắc, bất cập phát sinh từ thực tiễn.
Thống nhất với Tờ trình của Chính phủ về sự cần thiết sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế GTGT, đại biểu Ma Thị Thúy - Đoàn ĐBQH tỉnh Tuyên Quang góp ý vào Điều 1 của dự thảo Luật và cho rằng, nội dung sửa đổi này có tác động trực tiếp đến hàng triệu hộ nông dân, hợp tác xã cũng như nhiều doanh nghiệp trong chuỗi sản xuất.

Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải dự Phiên thảo luận Tổ 16. Đại biểu Lý Thị Lan - Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Tuyên Quang điều hành thảo luận.
Quy định rõ nguyên tắc xác định các tiêu chí nhận diện sản phẩm chưa chế biến
Về sửa đổi khoản 1 Điều 5, dự thảo Luật đã mở rộng đối tượng không phải tính thuế GTGT đối với sản phẩm nông - lâm - thủy sản chưa chế biến khi doanh nghiệp, hợp tác xã bán cho nhau.
Về nguyên tắc, đại biểu cho rằng, đây là bước đi phù hợp nhằm giảm chi phí trung gian, tháo gỡ vướng mắc trong khấu trừ - kê khai.
Tuy nhiên, đại biểu Ma Thị Thúy băn khoăn ở hai điểm:
Thứ nhất, khái niệm “sơ chế thông thường” vẫn không được định nghĩa rõ ràng, trong khi đây chính là điểm gây tranh cãi suốt nhiều năm, dẫn tới tình trạng cùng một loại hàng hóa nhưng mỗi địa phương áp dụng một cách khác nhau; doanh nghiệp luôn trong trạng thái vừa kê khai, vừa lo rủi ro bị ấn định thuế.
Thứ hai, việc giao Bộ Tài chính quy định chi tiết mà không có nguyên tắc cụ thể trong Luật dễ dẫn tới cách hiểu tùy nghi, thậm chí mở rộng hoặc thu hẹp đối tượng một cách hành chính.
Do đó, đại biểu đề nghị phải quy định nguyên tắc ngay trong Luật, tối thiểu xác định các tiêu chí nhận diện sản phẩm chưa chế biến nhằm đảm bảo tính ổn định của chính sách.

Đại biểu Ma Thị Thúy - Đoàn ĐBQH tỉnh Tuyên Quang phát biểu
Về sửa đổi khoản 5 Điều 9, đại biểu nhận thấy, việc quy định phế phẩm, phụ phẩm, phế liệu áp thuế suất theo đúng mặt hàng là hợp lý.
Tuy nhiên, đại biểu băn khoăn việc quy định này đã đủ để giải quyết tình trạng mua bán hóa đơn, hợp thức hóa phế liệu nhằm gian lận thuế hay không?
“Thực tế ở nhiều lĩnh vực có rủi ro cao như tái chế kim loại, thủy sản, phế liệu thường là “điểm mù” trong quản lý thuế. Nếu như chỉ sửa đổi về thuế suất mà không siết về quy trình kiểm soát, hóa đơn điện tử, truy vết dòng hàng thì nguy cơ thất thu vẫn rất lớn. Tôi đề nghị Cơ quan soạn thảo đánh giá lại tác động và bổ sung công cụ quản lý chứ không chỉ sửa về câu chữ như vậy”, đại biểu kiến nghị.
Quy định rõ điều kiện khấu trừ thuế đầu vào để áp dụng thống nhất
Theo Quochoi.vn, góp ý về khoản 3a Điều 14 quy định khấu trừ thuế đầu vào đối với hàng hóa, dịch vụ không phải tính thuế, đại biểu Ma Thị Thúy cho rằng, đây là điểm sửa đổi lớn nhất và cũng tiềm ẩn nhiều hệ quả. Việc cho phép khấu trừ toàn bộ thuế đầu vào về mặt lý thuyết là tích cực, giảm chi phí vốn cho doanh nghiệp.
Tuy nhiên, đại biểu nhận thấy, ranh giới giữa “không phải tính thuế” và “không chịu thuế” hiện rất mờ nhạt. Nếu không làm rõ thì sẽ dẫn tới cách hiểu tùy tiện, doanh nghiệp có thể khai báo theo hướng có lợi tối đa, trong khi cơ quan thuế lại áp dụng cách hiểu ngược lại. Điều này chính là nguồn gốc của hàng loạt tranh chấp về khấu trừ - hoàn thuế trong nhiều năm qua.
Bên cạnh đó, đại biểu nhận thấy, việc mở rộng khấu trừ đầu vào có thể dẫn đến tăng áp lực hoàn thuế, tạo thêm rủi ro gian lận nếu không có cơ chế kiểm tra điện tử và đánh giá rủi ro đi kèm. Đại biểu đề nghị bổ sung điều khoản giao Chính phủ quy định rõ điều kiện khấu trừ thuế, tránh trường hợp doanh nghiệp bị “treo thuế” do cách áp dụng không thống nhất.
Bãi bỏ điều kiện về chứng từ phải song hành với nâng cao năng lực giám sát điện tử
Về việc bãi bỏ điểm c khoản 9 Điều 15, đại biểu Ma Thị Thúy cho rằng, dự thảo Luật đã bãi bỏ một số điều kiện về chứng từ nhằm đơn giản hóa thủ tục hành chính là đúng hướng, nhưng việc bãi bỏ phải song hành với nâng cao năng lực giám sát điện tử.
“Nếu không quy định như vậy thì chúng ta vô tình tạo “khoảng trống” cho hành vi hợp thức hóa hóa đơn và nghiễm nhiên mở rộng đường cho gian lận khấu trừ, hoàn thuế. Hiện nay, năng lực phân tích dữ liệu ngành thuế ở nhiều địa phương còn hạn chế, đặc biệt là khu vực miền núi, vùng sâu vùng xa. Do đó, nếu bỏ điều kiện mà không có giải pháp tăng giám sát thì nguy cơ rủi ro lớn hơn là lợi ích”, đại biểu nêu quan điểm.
Chúng tôi luôn Lắng nghe và phản hồi