Nội dung Nghị định 245/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định 155/2020/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chứng khoán

12/09/2025 15:51

(Chinhphu.vn) - Giới thiệu nội dung Nghị định số 245/2025/NĐ-CP ngày 11/09/2025 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 155/2020/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chứng khoán.

Nội dung Nghị định 245/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định 155/2020/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chứng khoán

Ngày 29/11/2024, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật số 56/2024/QH15 sửa đổi, bổ sung một số điều của 09 Luật trong lĩnh vực tài chính, trong đó có Luật Chứng khoán (sau đây gọi tắt là Luật Chứng khoán sửa đổi). Do đó, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 245/2025/NĐ-CP ngày 11/09/2025 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 155/2020/NĐ-CP để quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật số 56/2024/QH15.

Ngoài nội dung hướng dẫn thi hành Luật số 56, Nghị định số 245/2025/NĐ-CP ngày 11/09/2025 còn được xây dựng để khắc phục một số bất cập phát sinh trong thực tiễn hoạt động của TTCK, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán (TTCK), bảo đảm TTCK hoạt động công khai, minh bạch, hiệu quả, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia thị trường.

Nghị định sửa đổi, bổ sung nội dung tại 89 Điều, bãi bỏ nội dung liên quan tại một số khoản, điểm tại 22 Điều của Nghị định số 155/2020/NĐ-CP. Những nội dung sửa đổi, bổ sung chính tại Nghị định số 245/2025/NĐ-CP (sau đây gọi tắt là Nghị định) như sau:

1. Về quy định chung

- Nghị định sửa đổi thuật ngữ “cơ cấu lại doanh nghiệp” để đảm bảo rõ ràng, thuận lợi, thống nhất trong áp dụng pháp luật khi doanh nghiệp thực hiện chào bán, phát hành chứng khoán, cũng như đề nghị SGDCK xem xét việc tiếp tục niêm yết khi có các hoạt động ảnh hưởng lớn đến tình hình sản xuất, kinh doanh hoặc quản trị công ty, cụ thể:

+ Nghị định làm rõ loại báo cáo tài chính là căn cứ xác định chỉ tiêu “tổng giá trị tài sản” trong trường hợp cơ cấu lại doanh nghiệp. Cụ thể, chỉ tiêu “tổng giá trị tài sản” để xác định một giao dịch là giao dịch cơ cấu lại doanh nghiệp (giao dịch có giá trị từ 35% tổng giá trị tài sản trở lên) được căn cứ trên báo cáo tài chính năm gần nhất được kiểm toán; trường hợp doanh nghiệp có đơn vị trực thuộc không có tư cách pháp nhân, căn cứ trên Báo cáo tài chính (BCTC) tổng hợp; trường hợp doanh nghiệp là công ty mẹ, căn cứ trên chỉ tiêu “tổng giá trị tài sản” có giá trị thấp hơn trên BCTC riêng của công ty mẹ và BCTC hợp nhất.

+ Đối với trường hợp mua lại doanh nghiệp, bán tài sản: Việc xác định giao dịch là trường hợp cơ cấu lại doanh nghiệp sẽ căn cứ trên giá trị từng giao dịch. Trường hợp thực hiện nhiều giao dịch để mua lại một doanh nghiệp hoặc thực hiện mua lại nhiều doanh nghiệp mà các doanh nghiệp được mua lại thuộc nhóm công ty mẹ - công ty con thì được căn cứ trên tổng giá trị các giao dịch này phát sinh trong năm cơ cấu lại doanh nghiệp.

- Sửa đổi, bổ sung Điều 6 về trách nhiệm của tổ chức, cá nhân liên quan đến hồ sơ, tài liệu báo cáo để làm rõ hơn về chủ thể tham gia vào quá trình lập, xác nhận, tiếp nhận, xem xét, xử lý, chấp thuận hồ sơ, tài liệu báo cáo, phù hợp với Luật số 56/2024/QH15. Trong đó, lưu ý các công ty chứng khoán về việc Nghị định bổ sung quy định Tổ chức tư vấn hồ sơ chào bán, phát hành chứng khoán, niêm yết, đăng ký giao dịch chứng khoán phải trực tiếp thực hiện các hoạt động tư vấn hồ sơ. Quy định này nhằm nâng cao trách nhiệm của các công ty chứng khoán, chất lượng của các hồ sơ chào bán, phát hành, niêm yết, đăng ký giao dịch. Theo đó, các công ty chứng khoán khi thực hiện tư vấn hồ sơ không được thuê ngoài hoặc chuyển cho các doanh nghiệp khác thực hiện nghiệp vụ này, chỉ “ký tên” trong hợp đồng tư vấn, bản cáo bạch nhưng không trực tiếp tham gia vào hoạt động này trên thực tế.

- Ngoài ra, trong bối cảnh công nghệ số, để triển khai dịch vụ công trực tuyến theo chủ trương của Đảng, Chính phủ, Nghị định sửa đổi quy định các cách thức nộp và trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính (TTHC) thống nhất với quy định của pháp luật về thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại Bộ phận Một cửa và Cổng Dịch vụ công quốc gia. Bên cạnh đó, cá nhân được sử dụng tài khoản định danh điện tử trong thực hiện TTHC khi hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đã kết nối, chia sẻ được dữ liệu với hệ thống thông tin của Bộ Tài chính.

2. Về chào bán, phát hành chứng khoán

Nghị định sửa đổi, bổ sung một số quy định để đảm bảo minh bạch thông tin về hoạt động chào bán, phát hành cũng như bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư như sau:

2.1. Quy định chung về chào bán, phát hành chứng khoán

- Sửa đổi, bổ sung quy định liên quan đến báo cáo tài chính làm căn cứ khi xem xét điều kiện về chào bán, phát hành tại Điều 7, Điều 11 và Điều 62 Nghị định số 155/2020/NĐ-CP để tránh cách hiểu không thống nhất và thuận lợi trong quá trình thực hiện.

- Bổ sung tại Điều 9 quy định về trách nhiệm báo cáo và công bố thông tin về việc sử dụng vốn, số tiền thu được từ đợt chào bán, đợt phát hành cho mục đích không để thực hiện dự án (tương tự các trường hợp huy động vốn để thực hiện dự án như quy định hiện hành). Theo đó, doanh nghiệp phải báo cáo và công bố thông tin định kỳ 6 tháng về việc sử dụng vốn, số tiền thu được từ đợt chào bán, đợt phát hành kể từ ngày kết thúc đợt chào báncho đến khi giải ngân hết số tiền đã huy động. Tổ chức phát hành phải công bố báo cáo sử dụng vốn, số tiền thu được từ đợt chào bán, đợt phát hành được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán được chấp thuận tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông thường niên, Hội đồng thành viên;báo cáo chủ sở hữu công ty hoặc thuyết minh chi tiết việc sử dụng vốn, số tiền thu được từ đợt chào bán, đợt phát hành trong báo cáo tài chính năm được kiểm toán xác nhận.

2.2. Về chào bán cổ phiếu ra công chúng

- Nghị định sửa đổi Điều 11 Nghị định số 155/2020/NĐ-CP về hồ sơ chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng thống nhất với Điều 15 Luật Chứng khoán (sửa đổi), theo đó bổ sung tài liệu trong hồ sơ chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) gồm Báo cáo về vốn điều lệ đã góp tính đến thời điểm đăng ký chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán độc lập.

- Bổ sung tại Điều 30, Điều 31 quy định việc tổ chức phát hành phải lập báo cáo tổng hợp thông tin tài chính theo quy ước khi nộp hồ sơ IPO sau quá trình cơ cấu lại doanh nghiệp. Việc bổ sung quy định này để thống nhất với các hoạt động chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng; đồng thời phản ánh đầy đủ, minh bạch thông tin cho nhà đầu tư về tình hình tài chính của doanh nghiệp sau khi có các hoạt động ảnh hưởng lớn đến tình hình sản xuất, kinh doanh, quản trị công ty.

2.3. Về chào bán trái phiếu ra công chúng

- Về điều kiện chào bán trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) ra công chúng

Để quy định chi tiết điểm g khoản 3 Điều 15 Luật Chứng khoán được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 56/2024/QH15 về điều kiện chào bán TPDN ra công chúng: “Đáp ứng quy định của Chính phủ về đại diện người sở hữu trái phiếu, hệ số nợ, giá trị phát hành trên vốn chủ sở hữu và xếp hạng tín nhiệm”, Nghị định quy định như sau:

+ Về xếp hạng tín nhiệm (XHTN):

Sửa đổi khoản 2 Điều 19 Nghị định số 155/2020/NĐ-CP theo hướng quy định các tổ chức phát hành hoặc TPDN đăng ký chào bán ra công chúng đều phải XHTN, ngoại trừ trường hợp trái phiếu phát hành của tổ chức tín dụng hoặc trái phiếu được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức tài chính ở nước ngoài, tổ chức tài chính quốc tế bảo lãnh thanh toán toàn bộ gốc và lãi trái phiếu. Tổ chức XHTN không phải là người có liên quan của tổ chức phát hành.

Ngoài ra, Nghị định bổ sung tại Điều 3 về thuật ngữ “tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập”, theo đó bổ sung thêm 03 tổ chức xếp hạng tín nhiệm Moody’s, Standard & Poor, Fitch Ratings, tạo điều kiện cho doanh nghiệp đang sử dụng XHTN của các tổ chức XHTN quốc tế có thể sử dụng các kết quả XHTN này để phát hành trái phiếu doanh nghiệp ra công chúng, giảm chi phí cho doanh nghiệp.

+ Về Đại diện người sở hữu trái phiếu: Luật số 56/2024/QH15 quy định TPDN chào bán ra công chúng phải có Đại diện người sở hữu trái phiếu để giám sát việc tuân thủ các cam kết của tổ chức phát hành trong hồ sơ đăng ký chào bán trái phiếu; làm trung gian liên lạc giữa người sở hữu trái phiếu, tổ chức phát hành và các tổ chức có liên quan khác... góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư.

Tại Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 155/2020/NĐ-CP quy định làm rõ trường hợp Đại diện người sở hữu trái phiếu không được nhận tài sản bảo đảm theo pháp luật chuyên ngành thì được chỉ định cho bên thứ ba nhận tài sản bảo đảm đó hoặc toàn bộ tài sản bảo đảm của trái phiếu; giúp linh hoạt, thống nhất trong quản lý các tài sản bảo đảm của trái phiếu.

+ Về hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu (VCSH):

Về nội hàm hệ số nợ/VCSH: Nghị định quy định là chỉ tiêu Nợ phải trả/vốn chủ sở hữu, do đây là chỉ số thể hiện khả năng thanh toán nợ, mức độ rủi ro tài chính và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp; đồng thời đây cũng là một chỉ số quan trọng được sử dụng để đánh giá đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp. Tổng nợ phải trả trên Bảng cân đối kế toán thể hiện đầy đủ, toàn diện trách nhiệm về nghĩa vụ nợ của doanh nghiệp, là một trong những tiêu chí quan trọng để bảo đảm sự minh bạch và hạn chế rủi ro cho công chúng đầu tư khi tham gia mua trái phiếu của doanh nghiệp chào bán ra công chúng.

Về mức hệ số nợ phải trả/VCSH: Nghị định quy định tổ chức phát hành phải có hệ số nợ phải trả (bao gồm cả giá trị trái phiếu dự kiến phát hành, ngoại trừ trái phiếu phát hành để cơ cấu lại khoản nợ) không quá 5 lần VCSH, ngoại trừ doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp kinh doanh bất động sản, tổ chức tín dụng, tổ chức kinh doanh bảo hiểm, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán. Trường hợp doanh nghiệp phát hành cho nhiều đợt chào bán, giá trị trái phiếu dự kiến phát hành từng đợt theo mệnh giá không lớn hơn vốn chủ sở hữu.

- Về điều kiện chào bán TPDN có bảo đảm ra công chúng: Tại Nghị định mở rộng đối tượng được làm tổ chức bảo lãnh thanh toán trái phiếu doanh nghiệp chào bán ra công chúng, không chỉ gồm các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài như tại Điều 23, Điều 25 Nghị định số 155/2020/NĐ-CP mà còn bao gồm cả bảo lãnh thanh toán của tổ chức tài chính ở nước ngoài, tổ chức tài chính quốc tế.

2.4. Về chào bán, phát hành khác

- Về chào bán cổ phiếu riêng lẻ:

Nghị định sửa đổi Điều 43, 45, 47 Nghị định số 155/2020/NĐ-CP để làm rõ các vấn đề phải được ĐHĐCĐ thông qua và được ủy quyền cho HĐQT thông qua, theo đó ĐHĐCĐ phải thông qua giá chào bán, hoặc thông qua nguyên tắc xác định giá chào bán và ủy quyền cho Hội đồng quản trị xác định giá chào bán. Quy định này nhằm tạo cơ sở rõ ràng, minh bạch cho doanh nghiệp khi thực hiện, thống nhất với quy định tại Điều 31 Luật Chứng khoán (sửa đổi).+

- Về chào bán cổ phiếu để hoán đổi:

+ Nghị định bổ sung vào quy định tại Điều 49 Nghị định số 155/2020/NĐ-CP để làm rõ kỳ kế toán báo cáo tài chính của các công ty có cổ phần, phần vốn góp được hoán đổi phải đảm bảo tối thiểu 12 tháng, hạn chế rủi ro cho nhà đầu tư khi công ty đại chúng phát hành cổ phiếu để hoán đổi cổ phần, phần vốn góp của các doanh nghiệp mới thành lập.

+ Về phát hành cổ phiếu để hoán đổi với cổ phần hoặc phần vốn góp của công ty chưa đại chúng; phát hành cổ phiếu để hoán đổi nợ: Nghị định quy định chặt chẽ hơn trách nhiệm của Hội đồng quản trị trong việc báo cáo Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) về phương án phát hành để hoán đổi nợ, hoán đổi cổ phần, phần vốn góp của doanh nghiệp chưa phải là công ty đại chúng, ý kiến của tổ chức thẩm định giá độc lập (nếu có) để Đại hội đồng cổ đông xem xét, quyết định, đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch, phù hợp với giá thị trường (nội dung sửa Điều 50, 58 Nghị định 155/2020/NĐ-CP).

- Về phát hành cổ phiếu theo chương trình lựa chọn cho người lao động:

+ Nghị định sửa đổi quy định về điều kiện, hồ sơ phát hành theo chương trình lựa chọn cho người lao động trong công ty tại Điều 64, Điều 65 để làm rõ các vấn đề phải được ĐHĐCĐ thông qua và HĐQT thông qua. Theo đó, ĐHĐCĐ phải thông qua các nội dung gồm đối tượng, tiêu chuẩn người lao động tham gia chương trình, số lượng cổ phiếu phát hành; giá phát hành, hoặc nguyên tắc xác định giá phát hành và ủy quyền cho Hội đồng quản trị xác định giá phát hành.

+ Ngoài ra, Nghị định sửa đổi Điều 64 quy định ngoại trừ thời gian hạn chế chuyển nhượng cổ phiếu phát hành (01 năm kể từ ngày kết thúc đợt phát hành) đối với trường hợp công ty mua lại cổ phiếu theo quy chế phát hành theo chương trình lựa chọn cho người lao động đã được ĐHĐCĐ hoặc Hội đồng quản trị công ty thông qua; đồng thời công ty được phép bán ra số cổ phiếu đã được mua lại theo hướng dẫn của Bộ Tài chính mà không phải giảm vốn điều lệ. Quy định này thống nhất với khoản 6 Điều 36, khoản 7 Điều 37 Luật Chứng khoán (sửa đổi).

2.5. Đơn giản hóa TTHC liên quan đến chào bán, phát hành chứng khoán

(i) Thủ tục chào bán thêm cổ phiếu, trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm theo chứng quyền ra công chúng của công ty đại chúng (CTĐC): Bỏ quy định về điều kiện tỷ lệ chào bán thành công (70%) đối với trường hợp chào bán chứng khoán ra công chúng cho cổ đông theo tỷ lệ sở hữu tại khoản 2 Điều 12, khoản 6 Điều 21, khoản 6 Điều 22, thống nhất với Điều 15 Luật Chứng khoán (sửa đổi).

(ii) Thủ tục chào bán thêm trái phiếu/trái phiếu có bảo đảm hoặc kèm theo chứng quyền ra công chúng: Bỏ thành phần hồ sơ là “văn bản chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) về phương án phát hành trái phiếu ra công chúng theo quy định của pháp luật về các tổ chức tín dụng” đối với hồ sơ đăng ký chào bán trái phiếu ra công chúng của tổ chức tín dụng tại khoản 9 Điều 20, phù hợp với pháp luật ngân hàng.

(iii) Chào bán trái phiếu ra công chúng bằng đồng Việt Nam của tổ chức tài chính quốc tế (Điều 26, 27): Bỏ điều kiện: “Tổng số tiền huy động từ đợt chào bán tại Việt Nam không vượt quá 30% tổng vốn đầu tư của dự án”. Giảm điều kiện: “Trái phiếu chào bán là trái phiếu có kỳ hạn không dưới 10 năm” thành kỳ hạn 05 năm. Sửa đổi, bổ sung quy định về điều kiện, hồ sơ chào bán và mẫu phụ lục để phù hợp với đặc thù của các tổ chức này, giúp doanh nghiệp tăng khả năng tiếp cận vốn, hạn chế rủi ro khi vay bằng ngoại tệ trực tiếp từ tổ chức tài chính.

(iv) Đơn giản các TTHC liên quan đến phát hành để hoán đổi cổ phần, phần vốn góp, hoán đổi nợ, chào mua công khai, phát hành cổ phiếu theo hợp đồng hợp nhất, sáp nhập và đăng ký chào mua công khai (Điều 49 đến Điều 58, Điều 85) bỏ điều kiện và thành phần hồ sơ là “Văn bản của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia về tập trung kinh tế được thực hiện hoặc tập trung kinh tế có điều kiện”, do đây là trách nhiệm doanh nghiệp được điều chỉnh bởi pháp luật cạnh tranh, doanh nghiệp có trách nhiệm xác định có thuộc trường hợp tập trung kinh tế phải thông báo tại mẫu Giấy đăng ký phát hành.

(v) Đơn giản hóa thủ tục đăng ký chào mua công khai (Điều 86): Rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ chào mua công khai từ 15 ngày xuống còn 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ.

(vi) Đơn giản hóa việc chào bán chứng quyền có bảo đảm (Điều 202a): Đơn giản hóa các hồ sơ như Điều lệ, quy trình nghiệp vụ, Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông, Báo cáo tài chính so với quy định tại Thông tư số 107/2016/TT-BTC.

3. Về tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán

3.1. Về thành viên giao dịch của SGDCK

- Nghị định sửa đổi điểm a khoản 1 Điều 105 Nghị định số 155/2020/NĐ-CP để làm rõ việc SGDCK đình chỉ một phần hoặc toàn bộ hoạt động giao dịch của thành viên lưu ký và thành viên bù trừ phù hợp với quy định về cung cấp dịch vụ của các chủ thể này tại Điều 56 Luật chứng khoán 2019, theo đó thành viên lưu ký không có quyền cung cấp dịch vụ bù trừ nên trong các hình thức xử lý vi phạm chỉ có đình chỉ hoạt động lưu ký chứng khoán, thanh toán giao dịch chứng khoán; thành viên bù trừ có quyền thực hiện bù trừ, thanh toán giao dịch chứng khoán nên có hình thức xử lý vi phạm là đình chỉ hoạt động bù trừ, thanh toán giao dịch chứng khoán.

- Nghị định bổ sung Điều 106a quy định về điều kiện, hồ sơ, trình tự, thủ tục đăng ký hoạt động, đình chỉ, hủy bỏ tư cách thành viên tạo lập thị trường chứng chỉ quỹ hoán đổi danh mục (ETF) để tháo gỡ vướng mắc liên quan đến hoạt động tạo lập thị trường quỹ ETF.

3.2. Về quy định liên quan đến niêm yết

- Về niêm yết cổ phiếu: để làm rõ đối tượng phải kiểm toán vốn điều lệ đã góp là tổ chức đăng ký niêm yết “cổ phiếu” tăng vốn điều lệ sau kỳ kế toán gần nhất được kiểm toán, không áp dụng đối với tổ chức đăng ký niêm yết trái phiếu hoặc chứng chỉ quỹ.

+ Nghị định sửa đổi quy định tại Điều 109 Nghị định số 155/2020/NĐ-CP, trong đó bỏ điều kiện về không có nợ phải trả quá hạn do chỉ tiêu này dựa vào cam kết của tổ chức đăng ký niêm yết; tổ chức kiểm toán cũng không xác nhận đối với thông tin này. Ngoài ra, thực tế có những doanh nghiệp có quy mô lớn có nhiều công ty con, nhiều đơn vị trực thuộc và nhiều khoản nợ phải trả nên trong quá trình xem xét hồ sơ niêm yết không thể rà soát được toàn bộ nợ quá hạn để đảm bảo không có nợ quá hạn trên một năm. Hoặc một số trường hợp nợ quá hạn phát sinh tại công ty con có giá trị nhỏ không trọng yếu nhưng sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ tiến độ xem xét hồ sơ niêm yết của công ty mẹ.

+ Bổ sung khoản 21 Điều 310 về điều khoản chuyển tiếp việc doanh nghiệp cổ phần hóa trước ngày 01/01/2021 làm rõ việc miễn trừ điều kiện về cơ cấu cổ đông khi đăng ký niêm yết của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa, thống nhất giữa chủ trương niêm yết gắn với cổ phần hóa và việc miễn trừ điều kiện cơ cấu cổ đông cho các doanh nghiệp này từ Nghị định số 58/2012/NĐ-CP đến nay.

+ Đồng thời, Nghị định sửa đổi để linh hoạt tiêu chí sắp xếp, phân loại thị trường cổ phiếu cho phù hợp, là cơ sở để Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam (VNX) thực hiện sắp xếp thị trường cổ phiếu.

- Quy định mới thủ tục niêm yết cổ phiếu đồng thời với chào bán lần đầu ra công chúng (IPO):

Nghị định bổ sung các quy định để thống nhất hồ sơ IPO và hồ sơ đăng ký niêm yết như thống nhất nội dung mẫu Bản cáo bạch, Báo cáo tài chính, Báo cáo về vốn điều lệ đã góp tính đến thời điểm đăng ký chào bán/đăng ký niêm yết; quy định mới về trình tự, thủ tục đăng ký niêm yết cổ phiếu tại Sở Giao dịch chứng khoán.

Đối với quy trình chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) đồng thời với đăng ký niêm yết cổ phiếu, Nghị định sửa đổi theo hướng SGDCK xem xét hồ sơ đăng ký niêm yết cổ phiếu của doanh nghiệp đồng thời với quá trình UBCKNN xem xét hồ sơ IPO. Sau khi hoàn thành đợt chào bán cổ phiếu (theo báo cáo kết quả chào bán doanh nghiệp gửi cho UBCKNN), doanh nghiệp gửi SGDCK thông tin cập nhật Bản Cáo bạch và Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc giấy tờ pháp lý có giá trị tương đương, trong đó cập nhật vốn điều lệ của tổ chức đăng ký niêm yết sau khi chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng để SGDCK xem xét, cấp phép niêm yết.

- Về thời gian đưa cổ phiếu vào giao dịch:

Nghị định sửa đổi giảm thời hạn phải đưa chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ) vào giao dịch từ 90 ngày còn 30 ngày kể từ ngày SGDCK chấp thuận đăng ký niêm yết nhằm đảm bảo tốt hơn quyền lợi nhà đầu tư trong thực hiện các quyền chuyển nhượng chứng khoán trên thị trường có tổ chức. Chứng khoán sẽ bị huỷ niêm yết nếu không đưa vào giao dịch trong thời hạn này.

- Đăng ký niêm yết, thay đổi niêm yết trái phiếu:

+ Nghị định sửa đổi theo hướng đơn giản hóa Hồ sơ đăng ký niêm yết trái phiếu như bỏ thành phần là cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức đăng ký niêm yết đối với nhà đầu tư, hợp đồng tư vấn niêm yết trái phiếu để đảm bảo thuận lợi khi thi hành;

+ Nghị định bổ sung quy định về thay đổi niêm yết trái phiếu (Điều 118a);

- Về hủy bỏ niêm yết:

+ Nghị định sửa đổi Điều 120 Nghị định số 155/2020/NĐ-CP để làm rõ các trường hợp huỷ niêm yết cổ phiếu bắt buộc, trong đó chỉ tiêu kết quả hoạt động sản kinh doanh bị thua lỗ được căn cứ trên báo cáo tài chính năm được kiểm toán trong 03 năm liên tục gần nhất để tạo cơ sở rõ ràng khi đánh giá hoạt động của tổ chức niêm yết thông qua kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh.

+ Bổ sung quy định về trường hợp đặc biệt không áp dụng quy định hủy bỏ niêm yết cổ phiếu bắt buộc nhằm hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng khó khăn và phục hồi sản xuất kinh doanh.

+ Làm rõ các chứng chỉ quỹ đóng, quỹ đầu tư bất động sản, công ty đầu tư chứng khoán đại chúng không còn đáp ứng điều kiện có ít nhất 100 nhà đầu tư không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp bị hủy niêm yết nếu không đáp ứng điều kiện này trong thời gian 06 tháng liên tục.

+ Làm rõ trái phiếu đến thời gian đáo hạn bị hủy niêm yết (thời gian đáo hạn trên Bản cáo bạch chào bán và niêm yết trái phiếu, không bao gồm thời gian được gia hạn), đảm bảo phù hợp với hệ thống KRX và việc chuẩn hóa trái phiếu niêm yết trên SGDCK.

-Về đăng ký niêm yết tại nước ngoài của tổ chức phát hành Việt Nam

Nghị định sửa đổi Điều 126, 128, bãi bỏ Điều 127 để làm rõ công ty đại chúng, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán của Việt Nam đăng ký niêm yết, giao dịch chứng khoán tại Sở giao dịch chứng khoán nước ngoài phải gắn với chào bán chứng khoán ra nước ngoài. Doanh nghiệp chịu trách nhiệm tuân thủ quy định pháp luật của thị trường nước ngoài và UBCKNN không xem xét hồ sơ, thủ tục này, giảm TTHC, chi phí cho doanh nghiệp.

- Về niêm yết của tổ chức phát hành nước ngoài tại Việt Nam:

Nghị định sửa đổi Điều 124 để đơn giản hóa thủ tục đăng ký niêm yết trái phiếu của tổ chức phát hành nước ngoài tại Việt Nam, tăng tính hội nhập của TTCK Việt Nam với TTCK các nước;

Nghị định cũng quy định theo hướng UBCKNN không xem xét việc đăng ký niêm yết chứng khoán của tổ chức phát hành nước ngoài; doanh nghiệp chỉ cần thực hiện đăng ký niêm yết tại SGDCK.

Ngoài ra, Nghị định còn bổ sung quy định về niêm yết chứng quyền có bảo đảm (Điều 119a) (hiện đang quy định tại cấp Thông tư của Bộ Tài chính).

4. Về hoạt động đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán giao dịch chứng khoán

Một là, hoàn thiện quy định về đăng ký chứng khoán và cung cấp thông tin về chứng khoán đã đăng ký tại VSDC

- Nghị định bỏ thành phần hồ sơ là “Giấy chứng nhận đăng ký chứng khoán đã được điều chỉnh VSDC cấp” tại các hồ sơ niêm yết/đăng ký giao dịch; thay đổi niêm yết/đăng ký giao dịch quy định tại Điều 110, 114, 115, 116, 117, 118, 134, 135, 136 Nghị định 155, để doanh nghiệp có thể thực hiện song song các thủ tục tại SGDCK (thay vì như quy trình hiện hành, doanh nghiệp phải thực hiện thủ tục xong đăng ký chứng khoán/điều chỉnh đăng ký chứng khoán ở VSDC mới thực hiện niêm yết/thay đổi niêm yết tại SGDCK), giúp rút ngắn thời gian niêm yết/đăng ký giao dịch cho doanh nghiệp.

- Nghị định bổ sung tại Điều 149 quy định về nghĩa vụ hoàn tất việc đăng ký chứng khoán tại VSDC của doanh nghiệp trước khi đưa chứng khoán vào giao dịch trên hệ thống của SGDCK để tách bạch các hoạt động này, làm rõ việc đăng ký chứng khoán không thể hiện chứng khoán đáp ứng điều kiện niêm yết, đăng ký giao dịch. Ngoài ra bổ sung quy định về việc cơ quan có thẩm quyền theo quy định pháp luật khi yêu cầu VSDC cung cấp thông tin liên quan đến sở hữu chứng khoán phải có yêu cầu cung cấp thông tin nêu rõ nội dung, mục đích, hình thức yêu cầu cung cấp thông tin, căn cứ pháp lý xác định thẩm quyền được yêu cầu cung cấp thông tin, tạo cơ sở cho VSDC thực hiện trên thực tiễn, đồng thời đảm bảo nguyên tắc về bảo mật thông tin của khách hàng theo quy định tại khoản 2 Điều 55 Luật Chứng khoán.

Hai là, về bù trừ, thanh toán giao dịch chứng khoán

Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 155/2020/NĐ-CP bổ sung một số quy định nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý để triển khai cơ chế CCP cũng như thành lập công ty con để đảm nhận chức năng CCP trên cơ sở quy định tại Luật số 56/2024/QH15, cụ thể là:

(i) Bổ sung quy định về công ty con của VSDC được thực hiện hoạt động bù trừ, xác định nghĩa vụ thanh toán giao dịch chứng khoán theo cơ chế CCP theo phân công của VSDC. Ngoài ra, công ty con của VSDC thực hiện trích 5% doanh thu hàng năm từ hoạt động nghiệp vụ của công ty con để lập quỹ phòng ngừa rủi ro nghiệp vụ để xử lý rủi ro trong quá trình xử lý các nghiệp vụ của công ty con, đây là một bước phòng vệ quan trọng nhằm đảm bảo các giao dịch thiếu tiền đều được thanh toán.

(ii) Nghị định sửa đổi tiếp tục làm rõ, chi tiết, nhất quán chính sách tại Luật Chứng khoán 2019 và Luật số 56/2024/QH15 về việc ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được tham gia làm thành viên bù trừ trên TTCK cơ sở; đồng thời bổ sung quy định nguyên tắc việc công ty chứng khoán là thành viên bù trừ có trách nhiệm phối hợp thực hiện hoạt động bù trừ, thanh toán giao dịch chứng khoán giữa thành viên bù trừ là công ty chứng khoán với ngân hàng lưu ký không làm thành viên bù trừ để có cơ sở hướng dẫn chi tiết các nội dung kỹ thuật tại Thông tư của Bộ trưởng Bộ Tài chính, theo đó các ngân hàng lưu ký không làm thành viên bù trừ vẫn có thể tham gia vào hệ thống CCP để phục vụ hoạt động ký quỹ và thanh toán giao dịch chứng khoán, đảm bảo tài sản của nhà đầu tư nước ngoài được lưu giữ tại ngân hàng lưu ký.

Ngoài ra, Nghị định còn sửa đổi khoản 1 Điều 151, bãi bỏ điểm d khoản 1 Điều 152 để bỏ điều kiện, thành phần hồ sơ về “chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước về việc ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cung cấp dịch vụ bù trừ, thanh toán giao dịch chứng khoán theo quy định của pháp luật về các tổ chức tín dụng”; nhằm đơn giản hóa hồ sơ, điều kiện cho doanh nghiệp, không phụ thuộc vào quy định của pháp luật ngân hàng.

(iii) Nghị định sửa đổi một số quy định để đảm bảo an toàn cho hoạt động bù trừ, thanh toán giao dịch chứng khoán như sau:

Nghị định sửa đổi khoản 1 Điều 150 theo hướng hoạt động bù trừ, thanh toán giao dịch chứng khoán theo cơ chế đối tác, bù trừ trung tâm (CCP) không áp dụng đối với trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) do: (i) Đối với TPDN riêng lẻ, hiện không thực hiện bù trừ đa phương mà theo phương thức thanh toán tức thời theo từng giao dịch; (ii) Đối với TPDN niêm yết, thị trường hiện có quy mô nhỏ, thanh khoản chưa cao, không giới hạn dao động giá, đồng thời Luật Chứng khoán không quy định mệnh giá tối đa của TPDN, nên khi có lỗi thanh toán xảy ra sẽ có thể gây ảnh hưởng lớn đến toàn bộ thị trường.

Bên cạnh đó, Nghị định cũng bổ sung trường hợp VSDC được từ chối giao dịch bất thường mà nếu thực hiện thanh toán có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến an toàn của hệ thống bù trừ, thanh toán giao dịch như hệ thống giao dịch gặp sự cố dẫn tới không kiểm soát được giao dịch đặt vào hệ thống (về khối lượng, về giá...) hoặc trong điều kiện thị trường có biến động mạnh, thành viên bù trừ mất khả năng thanh toán với khối lượng lớn, từ đó ảnh hưởng đến tính an toàn, ổn định và liên tục của thị trường (điểm đ khoản 1 Điều 156). 

Ngoài ra, Nghị định sửa đổi khoản 3 Điều 156 về trích lập quỹ phòng ngừa rủi ro nghiệp vụ của VSDC để bao quát nguồn doanh thu từ các hoạt động nghiệp vụ; sửa đổi quy định về khống chế việc trích lập dựa trên mức trích lập tối đa để VSDC có thể bổ sung trích lập quỹ trong trường hợp số dư quỹ giảm sau khi sử dụng, đảm bảo an toàn trong hoạt động bù trừ, thanh toán giao dịch chứng khoán.

- Sửa đổi, bổ sung thời hạn chậm nhất triển khai cơ chế CCP là 31/12/2027. Tuy nhiên, như lộ trình UBCKNN đã công bố vào ngày 18/7/2025 trên website của UBCKNN, việc triển khai cơ chế CCP cho thị trường chứng khoán cơ sở dự kiến thực hiện sớm hơn, bắt đầu từ quý I/2027.

Ba là, sửa đổi quy định để phù hợp với hệ thống công nghệ thông tin mới KRX

Tại khoản 4 Điều 169, theo quy định hiện hành, trường hợp chứng khoán đã đăng ký biện pháp bảo đảm bị hủy đăng ký tập trung thì VSDC tự động xóa biện pháp bảo đảm vào ngày hiệu lực hủy đăng ký chứng khoán. Tuy nhiên, theo tính năng hệ thống KRX yêu cầu đối với trường hợp hủy đăng ký chứng khoán mà cần thực hiện quyền thông qua chốt danh sách người sở hữu chứng khoán tại VSDC (như hủy đăng ký trái phiếu để hoán đổi thành cổ phiếu, hủy đăng ký cổ phiếu để giải thể doanh nghiệp…) thì VSDC phải giải tỏa số chứng khoán đang bị phong tỏa vào trước ngày hiệu lực hủy đăng ký chứng khoán, sau đó mới hủy được đăng ký chứng khoán.

5. Về mở cửa thị trường cho nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN)

Một là, tạo điều kiện thuận lợi trong xác định tư cách nhà đầu tư chuyên nghiệp của nhà đầu tư nước ngoài:

Trên cơ sở Luật số 56/2024/QH15 sửa đổi, bổ sung một số điều của 09 Luật trong lĩnh vực tài chính, trong đó có Luật Chứng khoán đã bổ sung đối tượng “Nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp là NĐTNN là cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam”, Nghị định số 245/2025/NĐ-CP cũng đã bổ sung quy định liên quan đến tài liệu xác định nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp của NĐTNN tương thích với giấy tờ, tài liệu của nước ngoài, giúp NĐTNN thuận lợi hơn khi tham gia vào các đợt chào bán, phát hành riêng lẻ…

Hai là, bảo đảm quyền của cổ đông là nhà đầu tư nước ngoài trong việc mua, bán cổ phiếu trên TTCK

Với mục tiêu mở cửa tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài, Nghị định sửa đổi bãi bỏ điểm e khoản 1 Điều 139 Nghị định số 155/2020/NĐ-CP, theo đó không còn quy định Đại hội đồng cổ đông, Điều lệ công ty đại chúng được quyết định tỷ lệ sở hữu nước ngoài tối đa thấp hơn mức quy định pháp luật và cam kết quốc tế. Đối với công ty đại chúng đã thông báo tỷ lệ sở hữu nước ngoài tối đa theo điểm e khoản 1 Điều 139 Nghị định số 155/2020/NĐ-CP thì được tiếp tục giữ nguyên hoặc được thay đổi tỷ lệ này theo hướng tăng lên để tiệm cận dần về mức quy định của pháp luật.

Đồng thời Nghị định cũng bổ sung về điều khoản chuyển tiếp quy định thời hạn các công ty đại chúng phải hoàn thành thủ tục thông báo tỷ lệ sở hữu nước ngoài tối đa (trong vòng 12 tháng kể từ ngày Nghị định số 245/2025/NĐ-CP có hiệu lực thi hành), do hiện nay nhiều công ty đại chúng chưa hoàn thành thủ tục này nên thị trường chưa phản ánh đúng tỷ lệ sở hữu nước ngoài tối đa tại công ty đại chúng.

Việc sửa đổi, bổ sung các quy định trên nhằm mục đích bảo đảm hơn quyền của cổ đông nước ngoài trong việc mua, bán cổ phiếu trên TTCK thứ cấp và sơ cấp; tuân thủ mức độ mở cửa thị trường tối đa theo pháp luật đầu tư, cũng như giảm rủi ro cho nhà đầu tư nước ngoài khi xảy ra các sự kiện ảnh hưởng đến doanh nghiệp.

Trên thực tế, tỷ lệ sở hữu nước ngoài tối đa của công ty đại chúng đã được công khai, công bố thông tin minh bạch tại trang thông tin điện tử của doanh nghiệp, Sở giao dịch chứng khoán; đặc biệt Tổng Công ty lưu ký chứng khoán Việt Nam (VSDC) đã cập nhật và công bố trên website hàng ngày về tỷ lệ sở hữu nước ngoài tối đa và tỷ lệ hiện hữu của NĐTNN tại từng công ty đại chúng để nhà đầu tư được biết và giao dịch.

Ba là, đơn giản hóa thủ tục về cấp mã số giao dịch cho nhà đầu tư nước ngoài

Tại Nghị định số 245/2025/NĐ-CP, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ để tiếp tục đơn giản hóa thủ tục cấp, hủy, thay đổi thông tin mã số giao dịch chứng khoán (MSGD) của NĐTNN theo hướng cắt giảm thủ tục yêu cầu thành viên lưu ký phải gửi hồ sơ giấy lên cho VSDC sau khi được cấp mã số giao dịch trực tuyến (ESTC) để VSDC cấp Giấy chứng nhận đăng ký mã số giao dịch chính thức. 

Theo đó, Nghị định đã rút ngắn thủ tục để VSDC gửi xác nhận ESTC cho thành viên lưu ký để thành viên lưu ký thông báo cho NĐTNN trong vòng 01 ngày làm việc kể từ ngày tiếp nhận thông tin kê khai từ thành viên lưu ký mà không cần nộp hồ sơ giấy để VSDC cấp Giấy chứng nhận đăng ký mã số giao dịch chính thức như trước đây. Như vậy theo quy định mới, NĐTNN được giao dịch ngay sau khi được cấp ESTC và phù hợp với thông lệ quốc tế.

Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cũng đã ban hành Thông tư số 03/2025/TT-NHNN ngày 29/4/2025, Thông tư số 25/2025/TT-NHNN ngày 31/8/2025 trong đó sửa đổi, bổ sung nhiều quy định nhằm đơn giản hóa thủ tục mở tài khoản vốn đầu tư gián tiếp, mở tài khoản thanh toán cho NĐTNN, giảm thời gian và chi phí tiếp cận thị trường, góp phần nâng cao khả năng tiếp cận và luân chuyển vốn, hướng tới mục tiêu nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam lên thị trường mới.

Bốn là, bổ sung quy định về việc cho phép các công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán nước ngoài khi đầu tư trên TTCK Việt Nam được cấp 02 mã số giao dịch chứng khoán

Nghị định đã bổ sung quy định cho phép các công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán nước ngoài được cấp 02 mã số giao dịch chứng khoán (01 mã số giao dịch chứng khoán cho hoạt động giao dịch của chính công ty và 01 mã số giao dịch chứng khoán cho hoạt động quản lý giao dịch của khách hàng của công ty), tương tự các công ty chứng khoán nước ngoài khi đầu tư tại Việt Nam để tối ưu hóa quy trình quản lý và theo dõi tách bạch nội bộ theo từng loại hình hoạt động (tự doanh, quản lý giao dịch của khách hàng) của công ty quản lý quỹ nước ngoài, là cơ sở để triển khai mô hình giao dịch tổng (OTA - Ominibus Trading Account) theo thông lệ quốc tế.

6. Về công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, cấp chứng chỉ hành nghề chứng khoán

Các quy định tại Nghị định nhằm đơn giản hóa TTHC trong hoạt động của công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, quỹ đầu tư chứng khoán, văn phòng đại diện công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ nước ngoài tại Việt Nam, đơn giản hóa thủ tục cấp chứng chỉ hành nghề chứng khoán, cụ thể như sau:

(i) Về đăng ký kinh doanh văn phòng đại diện công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ nước ngoài: Tại Điều 174, bỏ đối tượng phải đăng ký kinh doanh tại Cơ quan đăng ký kinh doanh là “văn phòng đại diện công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ nước ngoài tại Việt Nam” do theo quy định tại Điều 78 Luật Chứng khoán, văn phòng đại diện công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ nước ngoài tại Việt Nam không được hoạt động kinh doanh chứng khoán.

(ii) Về đăng ký hoạt động văn phòng đại diện công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ nước ngoài: Sửa đổi Điều 178 theo hướng tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài là công ty mẹ chỉ phải nộp báo cáo tài chính hợp nhất kiểm toán khi pháp luật nước ngoài có quy định do theo quy định tại một số nước, các tổ chức này không bắt buộc phải lập BCTC hợp nhất.

(iii) Về cấp chứng chỉ hành nghề chứng khoán:

+ Sửa đổi Điều 213 để gộp 02 TTHC là thi sát hạch và cấp chứng chỉ hành nghề chứng khoán, tạo điều kiện thuận lợi cho các cá nhân có nhu cầu cấp chứng chỉ hành nghề; cho phép thí sinh được nộp phiếu lý lịch tư pháp sau khi có kết quả thi sách hạch, đồng thời không bắt buộc phải nộp lại các giấy tờ như bằng tốt nghiệp đại học hoặc chứng chỉ chuyên môn khi thi lại phần chưa đạt.

+ Sửa đổi quy định tại Điều 214 để làm rõ trường hợp đối với các cá nhân bị thu hồi CCHN theo điểm a, c khoản 3 Điều 97 Luật Chứng khoán (không còn đáp ứng điều kiện cấp CCHN; không hành nghề chứng khoán trong 03 năm liên tục) mà sau đó đề nghị cấp CCHN thì phải đáp ứng điều kiện tương tự như điều kiện cấp CCHN lần đầu, đảm bảo rõ ràng trong khi thi hành.

+ Sửa đổi quy định tại Điều 215 để làm rõ trường hợp cấp CCHN có thể bằng bản giấy hoặc bản điện tử để chuẩn bị cho việc triển khai việc cấp và quản lý chứng chỉ hành nghề điện tử.

(iv) Về TTHC liên quan đến giải thể quỹ: Sửa đổi quy định tại Điều 232 về hồ sơ giải thể quỹ, bỏ yêu cầu tài liệu xác nhận của các nhà đầu tư về việc đã nhận đủ tiền và tài sản, vì khó thực hiện trên thực tế khi pháp luật cho phép số lượng các nhà đầu tư tại quỹ thành viên tối đa là 99 nhà đầu tư, số lượng các nhà đầu tư tại các quỹ đại chúng lớn (có quỹ hơn 1.000 nhà đầu tư). Theo đó, chỉ quy định có văn bản xác nhận của ngân hàng lưu ký hoặc ngân hàng giám sát và công ty quản lý quỹ, trong đó nêu rõ chi tiết khoản thanh toán, danh mục tài sản phân phối cho từng nhà đầu tư.

7. Các nội khác liên quan đến bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và quản trị công ty đại chúng

- Để hạn chế xung đột lợi ích, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho cổ đông, nhà đầu tư, Nghị định sửa đổi một số quy định như sau:

+ Sửa đổi quy định tại khoản 3 Điều 275 theo hướng thành viên Hội đồng quản trị của một công ty đại chúng chỉ được đồng thời là thành viên Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng thành viên tại tối đa 05 công ty khác.

+ Bổ sung tại Điều 278 về nghĩa vụ chi trả cổ tức của Hội đồng quản trị theo Nghị quyết ĐHĐCĐ thường niên, bảo vệ quyền lợi cho nhà đầu tư.

+ Bổ sung tại Điều 291 quy định: Giám đốc, Tổng Giám đốc không được là người có liên quan của người quản lý doanh nghiệp, Kiểm soát viên của công ty và công ty mẹ, người đại diện phần vốn nhà nước, người đại diện phần vốn của doanh nghiệp tại công ty và công ty mẹ; thống nhất với quy định tại Điều 162 Luật Doanh nghiệp (khoản 6 Điều 291), nhằm hạn chế xung đột lợi ích.

+ Về giao dịch giữa công ty đại chúng với cổ đông, người quản lý doanh nghiệp và người có liên quan của các đối tượng này, Nghị định sửa đổi về kỹ thuật tại các khoản 3, 4, 5 Điều 293 để tránh cách hiểu không thống nhất.

- Bên cạnh đó, Nghị định sửa đổi, bổ sung Điều 307, 308 Nghị định số 155/2020/NĐ-CP để làm rõ việc thực hiện các quyền của nhà đầu tư phát sinh khi bị cấm thực hiện hoạt động giao dịch chứng khoán hoặc tài khoản giao dịch bị phong tỏa; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, phù hợp với quy định của pháp luật dân sự, pháp luật có liên quan.

Ngoài ra, Nghị định sửa đổi làm rõ chứng khoán bị phong tỏa trên tài khoản của nhà đầu tư không bao gồm số chứng khoán chờ thanh toán cho giao dịch bán chứng khoán đã xác lập trên hệ thống giao dịch chứng khoán trước thời điểm tài khoản bị phong tỏa để phù hợp với thông lệ về hoạt động bù trừ thanh toán giao dịch chứng khoán và nguyên tắc giao dịch không hủy ngang trên TTCK (theo thông lệ về hoạt động bù trừ thanh toán giao dịch chứng khoán, chứng khoán trên tài khoản của bên bán chỉ chuyển sang tên bên mua vào ngày thanh toán, thường là từ 1 - 3 ngày kể từ ngày giao dịch (tại Việt Nam là sau 2 ngày làm việc) nên theo quy định hiện hành khi VSDC thực hiện phong tỏa chứng khoán trên tài khoản chứng khoán của bên bán có thể phong tỏa cả số chứng khoán đã được nhà đầu tư thực hiện lệnh bán nhưng chưa chuyển quyền sở hữu cho bên mua, dẫn đến nguy cơ các giao dịch bán này bị loại bỏ thanh toán do không có đủ chứng khoán để giao, từ đó ảnh hưởng đến quyền lợi nhà đầu tư).

8. Về hiệu lực thi hành và quy định chuyển tiếp

Các quy định sửa đổi, bổ sung tại Nghị định có hiệu lực ngay từ khi Nghị định ký ban hành, do đây là Nghị định được Thủ tướng Chính phủ thực hiện theo trình tự, thủ tục xây dựng văn bản quy phạm pháp luật rút gọn.

Đối với quy định chuyển tiếp về việc xử lý hồ sơ, tài liệu: Nghị định quy định rõ về việc tổ chức, cá nhân đã nộp hồ sơ, tài liệu báo cáo hợp lệ đến Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Sở giao dịch chứng khoán trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành thì tiếp tục thực hiện theo quy định của Nghị định số 155/2020/NĐ-CP.

Ngoài ra, Nghị định quy định chuyển tiếp cụ thể đối với các trường hợp thi sát hạch, cấp chứng chỉ hành nghề chứng khoán.

9. Về tổ chức triển khai thực hiện

Để bảo đảm các quy định tại Nghị định được triển khai thi hành đồng bộ, thống nhất, kịp thời và hiệu quả, Bộ Tài chính triển khai xây dựng trình cơ quan có thẩm quyền ban hành và ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ giao, dự kiến ban hành một số Thông tư hướng dẫn như:

 (i) Thông tư sửa đổi, bổ sung một số Điều của Thông tư 118/2020/NĐ-CP hướng dẫn các mẫu Bản cáo bạch, việc bán ra số cổ phiếu đã được mua lại theo chương trình ESOP; 

(ii) Thông tư về chứng quyền có bảo đảm;

 (iii) Thông tư về trích lập, quản lý và sử dụng quỹ phòng ngừa rủi ro nghiệp vụ của công ty con của Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam...

Đồng thời, tăng cường tuyên truyền, phổ biến, nâng cao hiểu biết cho các tổ chức, cá nhân về quy định sửa đổi, bổ sung Nghị định mới được ban hành./.

Nội dung này, đã nhận được 0 góp ý, hiến kế
Góp ý, hiến kế cho Chính phủ ngay tại đây
Đọc nhiều
TOÀN CẢNH: LỄ KHAI GIẢNG ĐẶC BIỆT và Kỷ niệm 80 năm thành lập Bộ Quốc gia Giáo dục

TOÀN CẢNH: LỄ KHAI GIẢNG ĐẶC BIỆT và Kỷ niệm 80 năm thành lập Bộ Quốc gia Giáo dục

Chính sách và cuộc sống

(Chinhphu.vn) - Sáng 5/9/2025, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ tổ chức Lễ khai giảng năm học mới kết hợp kỷ niệm 80 năm thành lập Bộ Quốc gia Giáo dục tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia (Hà Nội), truyền hình trực tiếp trên VTV1 và kết nối trực tuyến đến tất cả cơ sở giáo dục trong cả nước. Đây là sự kiện đặc biệt, đánh dấu chặng đường lịch sử của ngành, đồng thời tạo khí thế khởi đầu cho năm học 2025 – 2026.

TOÀN VĂN: NGHỊ QUYẾT SỐ 71-NQ/TW CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VỀ ĐỘT PHÁ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TOÀN VĂN: NGHỊ QUYẾT SỐ 71-NQ/TW CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VỀ ĐỘT PHÁ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

Chính sách mới

(Chinhphu.vn) - Thay mặt Bộ Chính trị, ngày 22/8/2025, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký ban hành Nghị quyết của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo (Nghị quyết số 71-NQ/TW). Cổng Thông tin điện tử Chính phủ trân trọng giới thiệu toàn văn Nghị quyết số 71-NQ/TW. 2

Tổng hợp luyện DIỄU BINH, DIỄU HÀNH A80

Tổng hợp luyện DIỄU BINH, DIỄU HÀNH A80

Chính sách và cuộc sống

(Chinhphu.vn) - Tối 21/8, các lực lượng tham gia diễu binh, diễu hành đã có buổi tổng hợp luyện đầu tiên trên Quảng trường Ba Đình lịch sử.

Chi tiết 34 ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH CẤP TỈNH

Chi tiết 34 ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH CẤP TỈNH

Chính sách và cuộc sống

(Chinhphu.vn) - Kể từ ngày 12/6/2025, cả nước có 34 đơn vị hành chính cấp tỉnh, gồm 28 tỉnh và 6 thành phố. Trong đó có 19 tỉnh và 4 thành phố hình thành sau sắp xếp và 11 tỉnh, thành phố không thực hiện sắp xếp.

TOÀN VĂN: NGHỊ ĐỊNH 154/2025/NĐ-CP quy định về TINH GIẢN BIÊN CHẾ

TOÀN VĂN: NGHỊ ĐỊNH 154/2025/NĐ-CP quy định về TINH GIẢN BIÊN CHẾ

Chính sách và cuộc sống

(Chinhphu.vn) - Toàn văn Nghị định số 154/2025/NĐ-CP ngày 15/6/2025 của Chính phủ quy định về tinh giản biên chế. Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 16/6/2025; thay thế Nghị định số 29/2023.

Chúng tôi luôn Lắng nghe và phản hồi Chúng tôi
luôn
Lắng nghe
và phản hồi