Ngày 20/3/2025, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã ban hành Hướng dẫn số 15-HD/UBKTTW, sửa đổi, bổ sung một số nội dung trong Hướng dẫn số 05-HD/UBKTTW ngày 22/11/2022 về thực hiện Quy định số 69-QĐ/TW của Bộ Chính trị về kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên vi phạm. Theo đó, đảng viên sinh con thứ 3 không bị xem xét xử lý kỷ luật.
Theo Báo Phụ nữ Việt Nam, đây là bước cụ thể hóa chỉ đạo của Bộ Chính trị tại Công văn số 13421-CV/VPTW ngày 17/02/2025, sau khi sơ kết 7 năm thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW (ngày 25/10/2017) về công tác dân số trong tình hình mới.
Bộ Chính trị đã thống nhất chủ trương sửa đổi các quy định của Đảng và pháp luật có liên quan đến chính sách dân số, trong đó có việc không xử lý kỷ luật đảng viên sinh con thứ ba trở lên, đồng thời khẳng định không hồi tố các trường hợp đã bị xử lý trước đó.
Theo Hướng dẫn 15-HD/UBKTTW, điểm 8.1 và 8.2 mục III trong Hướng dẫn số 05-HD/UBKTTW năm 2022 về hướng dẫn thực hiện một số điều trong Quy định về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm đã chính thức bị lược bỏ.
Đây là các điểm quy định về việc xem xét, xử lý kỷ luật đối với hành vi vi phạm chính sách dân số, trong đó có sinh con thứ ba.
Đồng thời, hướng dẫn mới bổ sung thêm điểm 8.3 như sau: "Không xem xét xử lý đối với hành vi quy định tại khoản 2 Điều 1 Pháp lệnh số 08/2008/PL-UBTVQH12 ngày 27/12/2008 sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh dân số năm 2003 "Sinh một hoặc hai con, trừ trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định".
Với thay đổi này, từ ngày 20/3/2025, việc sinh con thứ ba không còn được xem là hành vi vi phạm để xử lý kỷ luật Đảng.
Không kỷ luật đảng viên sinh con thứ 3: Góp phần nâng cao chất lượng và quy mô dân số một cách bền vững
Việc loại bỏ quy định kỷ luật đảng viên sinh con thứ ba cho thấy sự thích ứng linh hoạt của Đảng trước những biến động về cơ cấu dân số và yêu cầu phát triển bền vững trong tình hình mới.
Báo cáo sơ kết thực hiện Nghị quyết 21-NQ/TW đã chỉ rõ, cơ cấu dân số nước ta đang chuyển nhanh sang giai đoạn già hóa, mức sinh thấp kéo dài ở nhiều khu vực – đặc biệt là các tỉnh thành có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển.
Trong bối cảnh đó, việc duy trì chính sách sinh ít con không còn phù hợp. Việc chấm dứt xử lý kỷ luật đối với đảng viên sinh con thứ ba không chỉ gỡ bỏ áp lực tâm lý, tạo điều kiện cho cán bộ, đảng viên cân nhắc sinh thêm con một cách tự nguyện, mà còn góp phần nâng cao chất lượng và quy mô dân số một cách bền vững.
Theo Điều 7 Quy định 69-QĐ/TW năm 2022, các hình thức kỷ luật đối với đảng viên vẫn được quy định rõ ràng, bao gồm: khiển trách, cảnh cáo, cách chức (đối với đảng viên có chức vụ) và khai trừ đối với đảng viên chính thức; khiển trách và cảnh cáo đối với đảng viên dự bị.
Bộ Y tế đề xuất vợ chồng, cá nhân quyết định về SỐ CON
Trong một diễn biến liên quan, Bộ Y tế đang dự thảo Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh Dân số. Trong đó, Bộ đề xuất mỗi cặp vợ chồng, cá nhân quyết định về thời gian sinh con, số con và khoảng cách giữa các lần sinh.
Bộ Y tế cho biết, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, sự vào cuộc, tích cực tham gia, phối hợp, nỗ lực triển khai công tác dân số của các cấp, các ngành và cả hệ thống chính trị, sự đồng thuận của các tầng lớp Nhân dân, các tổ chức quốc tế, công tác dân số nước ta trong những năm qua đã đạt được những kết quả quan trọng. Chính sách, pháp luật về dân số từng bước được hoàn thiện.
Từ năm 2006 đến năm 2021, nước ta đã đạt và duy trì mức sinh thay thế; duy trì mức độ gia tăng dân số phù hợp; quy mô dân số năm 2023 đạt hơn 104 triệu người (vượt mục tiêu đến 2030 đạt quy mô dân số là 104 triệu người).
Việt Nam đang ở thời kỳ dân số vàng, tạo ra những lợi thế to lớn cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội; phân bố dân số đã hợp lý hơn; chất lượng dân số, chỉ số phát triển con người (HDI) của nước ta không ngừng tăng lên; tuổi thọ bình quân người Việt Nam ngày càng được nâng cao.
Kết quả nêu trên là tiền đề quan trọng để chuyển chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển.
Qua rà soát các văn bản pháp luật, Bộ Y tế nhận thấy, nhiều quy định có liên quan đến công tác dân số chưa đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất với hệ thống pháp luật hiện hành và không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, cụ thể như sau:
Thứ nhất, một số nội dung tại Pháp lệnh Dân số không còn phù hợp với Hiến pháp, như: quy định hạn chế về quyền quyết định số con.
Thứ hai, một số nội dung tại Pháp lệnh Dân số không còn phù hợp với các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành hoặc đã được các Luật quy định, như: quy định về việc hạn chế tập trung đông dân cư vào một số đô thị lớn.
Thứ ba, một số quy định của pháp luật về dân số không còn phù hợp với tình hình thực tiễn và chưa đáp ứng được yêu cầu về công tác dân số trong tình hình mới, như: mức sinh liên tục giảm trong thời gian qua nhưng quy định pháp luật hiện hành lại hạn chế số con (chỉ cho phép mỗi cặp vợ chồng sinh một hoặc hai con).
Mức sinh trên toàn quốc đang có xu hướng giảm thấp dưới mức sinh thay thế
Theo Bộ Y tế, mức sinh trên toàn quốc đang có xu hướng giảm thấp dưới mức sinh thay thế, từ 2,11 con/phụ nữ (2021) xuống 2,01 con/phụ nữ (2022), 1,96 con/phụ nữ (2023) và 1,91 con/phụ nữ (2024) - thấp nhất trong lịch sử và được dự báo là sẽ tiếp tục xuống thấp trong các năm tiếp theo.
Theo dự báo, kịch bản mức sinh tiếp tục giảm, đến năm 2039 Việt Nam sẽ kết thúc thời kỳ dân số vàng, năm 2042 quy mô dân số trong độ tuổi lao động đạt đỉnh và sau năm 2054 dân số sẽ bắt đầu tăng trưởng âm.
Lúc đó, hệ lụy của mức sinh thấp kéo dài sẽ dẫn đến thiếu hụt lực lượng lao động, suy giảm quy mô dân số, đẩy nhanh già hóa dân số, tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội.
Trong hai thập kỷ qua, mức sinh khu vực thành thị đã xuống dưới mức sinh thay thế, dao động quanh 1,7-1,8 con/phụ nữ; mức sinh khu vực nông thôn luôn cao hơn mức sinh thay thế, ở mức 2,2-2,3 con/phụ nữ.
Tuy nhiên, năm 2023, mức sinh khu vực nông thôn giảm xuống còn 2,07 con, dưới mức sinh thay thế, mức thấp nhất từ trước đến nay.
Đề xuất cặp vợ chồng, cá nhân quyết định số con
Nhằm góp phần duy trì vững chắc mức sinh thay thế trên phạm vi cả nước, Bộ Y tế dự thảo Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh Dân số.
Trong đó, Bộ Y tế đề xuất về quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân trong việc thực hiện cuộc vận động dân số và kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản:
1- Quyết định về thời gian sinh con, số con và khoảng cách giữa các lần sinh;
2- Bảo vệ sức khỏe, thực hiện các biện pháp phòng ngừa bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản, bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/AIDS và thực hiện các nghĩa vụ khác liên quan đến sức khỏe sinh sản.
Mời bạn đọc xem toàn văn dự thảo và góp ý tại đây.