
Các đại biểu Quốc hội tham gia thảo luận tổ
Đề nghị quy định linh hoạt về chính sách dân số theo vùng miền
Thảo luận tại tổ 4 gồm Đoàn ĐBQH các tỉnh Khánh Hoà, Lai Châu, Lào Cai về dự thảo Luật Dân số, các đại biểu đã tập trung góp ý chi tiết, từ ngôn ngữ pháp lý đến tính khả thi và các chính sách đột phá nhằm nâng cao chất lượng dân số Việt Nam trong giai đoạn mới.
Các ý kiến đều đánh giá cao sự cần thiết và tính phù hợp của việc nâng Pháp lệnh Dân số lên thành Luật. Tuy nhiên, nhiều đại biểu băn khoăn về tính linh hoạt của chính sách, sự mơ hồ trong câu chữ quy định về hỗ trợ nhà ở xã hội, cũng như tính khả thi của các chính sách lớn về điều chỉnh quy mô và phân bổ dân cư.
Vấn đề duy trì mức sinh thay thế và chính sách hỗ trợ tài chính, nhà ở cho các cặp vợ chồng sinh đủ hai con tại Điều 13 là nội dung nhận được nhiều ý kiến quan tâm tại buổi thảo luận. Đại biểu Hà Hồng Hạnh (Đoàn ĐBQH tỉnh Khánh Hòa) cho rằng, Việt Nam đang chuyển dần từ giai đoạn dân số vàng sang già hóa dân số nhanh.
Trong khi mức sinh giảm sâu ở các tỉnh, thành lớn (như TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai), thì một số địa phương vùng núi, vùng sâu, vùng xa lại duy trì mức sinh tương đối cao, "tôi đề nghị cần cân nhắc thêm việc có những quy định linh hoạt về chính sách dân số theo vùng miền", đại biểu Hà Hồng Hạnh nêu quan điểm.
Cụ thể, đối với các tỉnh, thành có mức sinh thấp, cần có các chính sách khuyến khích sinh đủ hai con như: hỗ trợ về tài chính, ưu tiên nhà ở, hay các chính sách giảm thuế thu nhập. Ngược lại, tại các vùng có mức sinh cao, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức và sử dụng các biện pháp hỗ trợ giảm sinh như dịch vụ kế hoạch hóa gia đình.
Đề xuất giảm thuế thu nhập cá nhân cho các hộ gia đình sinh đủ 2 con
Đại biểu Chamaléa Thị Thủy (Đoàn ĐBQH tỉnh Khánh Hoà) cũng đề nghị rà soát quy định chính sách hỗ trợ theo hướng linh hoạt, phù hợp với thực tiễn và khả năng cân đối ngân sách nhà nước, ngân sách địa phương.
Đại biểu lưu ý, việc triển khai đồng bộ các chính sách, đặc biệt là nhà ở, đang gặp nhiều khó khăn do hạn chế về nguồn lực. Đồng thời, đề xuất bổ sung nguyên tắc "thực hiện trong phạm vi khả năng cân đối ngân sách" để đảm bảo tính khả thi và tránh tạo kỳ vọng vượt quá năng lực thực hiện.
Đặc biệt, đại biểu kiến nghị nghiên cứu bổ sung các chính sách mang tính bền vững và thiết thực hơn, như: hỗ trợ phát triển hệ thống dịch vụ trông trẻ và giáo dục mầm non công lập/tư thục chất lượng cao; xem xét giảm thuế thu nhập cá nhân cho các hộ gia đình sinh đủ hai con.
Làm rõ câu chữ để đảm bảo quyền lợi công bằng trong chính sách ưu tiên mua nhà ở xã hội
Về chính sách ưu tiên mua hoặc thuê nhà ở xã hội quy định tại điểm c khoản 1 Điều 13 (sửa đổi, bổ sung điểm d khoản 1 Điều 79 Luật Nhà ở), nhiều đại biểu đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu lại câu chữ để tránh gây hiểu lầm và thiếu công bằng.
Đại biểu Lê Xuân Thân (Đoàn ĐBQH tỉnh Khánh Hòa) chỉ ra sự lấn cấn trong quy định: "Ưu tiên mua hoặc thuê nhà ở xã hội đối với phụ nữ sinh đủ hai con; hoặc nam giới có hai con đẻ mà không có vợ hoặc vợ đã chết".
Đại biểu đặt vấn đề: "Phụ nữ sinh đủ hai con có nghĩa là tính từ thời điểm nào, con bao nhiêu tuổi? Tương tự, nam giới có hai con đẻ, phải nuôi hai đứa con đẻ của mình tới bao nhiêu tuổi thì được hưởng chế độ này?".
Đại biểu cho rằng cách diễn đạt "nam giới có hai con đẻ mà không có vợ hoặc vợ đã chết" là khó hiểu và không bao quát hết các trường hợp trong thực tiễn như ly hôn, hoặc chưa kết hôn.
Ông đề nghị nên diễn đạt lại và quy định rõ phải là người đang nuôi hai đứa con chưa đủ 18 tuổi thì được ưu tiên, thay vì tách ra vợ một bên, chồng một bên như dự thảo.
Đề nghị mở rộng đối tượng ưu tiên mua nhà ở xã hội; tăng thời gian nghỉ thai sản
Đồng tình với quan điểm này, đại biểu Hoàng Văn Bình (Đoàn ĐBQH tỉnh Lai Châu) đề nghị mở rộng phạm vi đối tượng được hưởng ưu tiên. Đại biểu đặt câu hỏi: "Giả sử phụ nữ mà sinh ba con có được ưu tiên không? Nam giới không có vợ nhưng lại nhận con nuôi hợp pháp và được pháp luật công nhận thì có được hưởng không?", đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu lại nội hàm của câu chữ, câu từ này.
Ngoài ra, đại biểu Hoàng Thanh Bình cũng kiến nghị tăng thời gian nghỉ thai sản khi sinh con thứ hai trở lên để đảm bảo tính công bằng và khuyến khích các cặp vợ chồng sinh con.
Bên cạnh vấn đề quy mô, chất lượng dân số được xem là chỉ tiêu chiến lược về sức mạnh quốc gia và nhận được sự quan tâm đặc biệt. Đại biểu Hà Hồng Hạnh nhấn mạnh, đối với một quốc gia không chỉ có dân số đông mà phải có dân số chất lượng cao.
Do vậy, ngoài việc quy định về tư vấn khám sức khỏe trước kết hôn, sàng lọc, chẩn đoán, điều trị trước sinh và sơ sinh, đại biểu đề nghị bổ sung thêm các quy định về chính sách nâng cao thể lực và trí lực con người, gắn với y tế học đường, dinh dưỡng và thể thao học đường.
Đại biểu cho rằng nhiều chương trình hiện đang triển khai riêng lẻ, thiếu sự gắn kết và thống nhất, do đó cần được bổ sung trong Luật để góp phần nâng cao chất lượng dân số.
Cần quy định các cơ chế để điều tiết dân cư hợp lý
Nhiều đại biểu bày tỏ sự quan ngại về tính khả thi của các quy định mang tính vĩ mô trong dự thảo Luật, đồng thời đề xuất các giải pháp quản lý bằng công nghệ. Đại biểu Hoàng Quốc Khánh (Đoàn ĐBQH tỉnh Lai Châu) cho rằng, các điều luật quy định về điều chỉnh quy mô dân số (Điều 11), điều chỉnh cơ cấu dân số (Điều 14) và phân bố dân số hợp lý (Điều 16) là những chính sách rất lớn, liên quan đến đời sống kinh tế - xã hội, di chuyển, di dân, nhưng lại chưa rõ ràng về nguyên tắc và chính sách.
Đại biểu dẫn chứng thực tế tại các tỉnh miền núi như Lai Châu (diện tích lớn, dân số thưa) gặp khó khăn về đất sản xuất và đất ở, nếu quy định điều chỉnh dân số hợp lý mà thiếu nguyên tắc cụ thể sẽ khó tổ chức thực hiện, do vậy kiến nghị Ban soạn thảo cần cân đối để có được nguyên tắc cụ thể, rõ ràng hơn.
Cũng về phân bổ dân cư, một số đề nghị Luật cần quy định các cơ chế để điều tiết dân cư hợp lý, nhằm giải quyết tình trạng di cư tự do và đô thị hóa nhanh gây mất cân đối dân số nghiêm trọng, quá tải ở các đô thị lớn. Đồng thời, cần bảo đảm quyền lợi và các dịch vụ cơ bản (y tế, giáo dục, bảo hiểm, nhà ở xã hội) cho người di cư.
Nghiên cứu đưa các quy định về ứng dụng công nghệ số trong quản lý dữ liệu dân số
Một số đại biểu đề nghị nghiên cứu đưa các quy định về ứng dụng công nghệ số trong quản lý dữ liệu dân số. Đại biểu kiến nghị tích hợp công tác thống kê và quản lý dân số vào Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, tránh lãng phí.
Song song đó, cần xây dựng cơ chế bảo mật và chia sẻ dữ liệu liên ngành, cũng như xây dựng hệ thống dự báo xu hướng dân số và phân tích chính sách.
Về trách nhiệm triển khai, một số đại biểu đề nghị làm rõ hơn vai trò giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp đối với việc thực hiện chính sách và pháp luật về dân số tại địa phương, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và bảo đảm tính minh bạch.
Cũng tại phiên thảo luận, một số đề nghị bổ sung rõ cụm từ "chính quyền địa phương" thành "chính quyền địa phương cấp tỉnh" khi quy định về việc ban hành các quy định hỗ trợ công tác dân số, nhằm tránh sự chồng chéo giữa cấp tỉnh và cấp xã.
Ngoài ra, các đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu bổ sung và nhấn mạnh nguyên tắc bảo đảm quyền con người, quyền trẻ em, quyền được tiếp cận công bằng, bình đẳng với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản và kế hoạch hóa gia đình.
Việc xác lập rõ nguyên tắc này là cần thiết để giải quyết tình trạng bất bình đẳng giới trong lựa chọn giới tính thai nhi, cũng như sự tiếp cận chưa đồng đều các dịch vụ y tế giữa các vùng miền, nhóm dân tộc thiểu số, người nghèo và người khuyết tật, điều này không chỉ có ý nghĩa về mặt pháp lý mà còn thể hiện cam kết của Việt Nam trong thực thi công bằng xã hội và phát triển bền vững./.