Triển vọng thương mại toàn cầu năm 2024 vẫn rất bấp bênh
Kinh tế Việt Nam năm 2024 đã đi được một nửa chặng đường trong bối cảnh kinh tế thế giới dần hồi phục nhưng bấp bênh, đối mặt với nhiều rủi ro, bất định.
Cụ thể, giá xăng dầu, nguyên vật liệu, giá cước vận tải và giá vàng thế giới biến động mạnh, tạo sức ép lên lạm phát và tăng trưởng toàn cầu.
Ngân hàng Thế giới đánh giá GDP toàn cầu năm 2024 chịu sức ép từ lãi suất cao, căng thẳng thương mại, xung đột quân sự, biến động chính trị và dự báo kinh tế thế giới tăng 2,6%, cao hơn 0,2 điểm phần trăm so với dự báo trước, thấp hơn mức tăng 3,1% của năm 2023. Quỹ Tiền tệ quốc tế dự báo GDP toàn cầu năm 2024 tăng 3,2%.
Căng thẳng địa chính trị dai dẳng, có thể leo thang lên mức nguy hiểm, vấn đề biển Đỏ, mức nợ cao và tính bấp bênh của các nền kinh tế tác động tiêu cực đến mô hình thương mại toàn cầu.
Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển dự báo triển vọng thương mại toàn cầu năm 2024 vẫn rất bấp bênh. Trong quý II/2024, thương mại toàn cầu đã có bước phục hồi khá ngoạn mục, dự báo tăng 3% trong năm 2024.
Giá dầu thô thế giới biến động khó lường, dự báo giá dầu sẽ tăng trong quý III/2024. Tuy vậy, lãi suất đồng USD vẫn ở mức cao trong thời gian tới làm giảm nhu cầu dầu thô trên thị trường thế giới; cùng với đó, ngày 2/6/2024, Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ và đồng minh phát đi tín hiệu sẽ tăng nguồn cung, điều này khiến giá dầu có thể giảm.
Hiện tượng thời tiết cực đoan, tình hình mùa vụ không thuận lợi tại các vùng sản xuất lương thực chủ yếu dẫn tới giá lương thực thế giới gia tăng trong thời gian tới. Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp quốc công bố Chỉ số giá lương thực thế giới tháng 5/2024 tăng 0,9% so với tháng trước, đạt mức trung bình 120,4 điểm, là tháng thứ ba tăng liên tiếp.
Kinh tế Mỹ tăng trưởng chậm lại, GDP quý I/2024 tăng 1,4%, thấp hơn mức 3,3% của quý IV/2023; Chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI) tháng 5/2024 của Mỹ chỉ đạt 48,7 điểm; doanh số bán lẻ và niềm tin người tiêu dùng suy giảm; so với cùng kỳ năm trước, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 5/2024 tăng 3,3%, lạm phát cơ bản tăng 3,4%.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) dự báo lạm phát cuối năm 2024 ở mức 2,6%, nhỉnh hơn so với ước tính hồi đầu năm. Lạm phát vẫn dai dẳng nhưng khá gần mức mục tiêu; thị trường việc làm tích cực, việc làm tháng 5/2024 tăng cao, vượt xa so với dự báo khiến Fed có thể tiếp tục giữ nguyên mức lãi suất cao nhất trong 23 năm. Khả năng Fed điều chỉnh giảm lãi suất sớm nhất trong tháng 9 năm nay.
Kinh tế Khu vực đồng tiền chung châu Âu (Khu vực EU) đã thoát khỏi suy thoái với GDP quý I/2024 tăng 0,3%. Lạm phát cơ bản tháng 5/2024 tăng 2,9%.
Ngày 6/6/2024, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) lần đầu tiên kể từ năm 2019 đã cắt giảm lãi suất 0,25%, đưa lãi suất xuống mức 3,75% trong bối cảnh triển vọng lạm phát không chắc chắn, tốc độ tăng lương của Khu vực EU cao gấp đôi mức lạm phát, dẫn tới khả năng ECB khó có thể cắt giảm lãi suất một lần nữa trong năm nay.
Kinh tế Trung Quốc - Nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới, đối tác thương mại lớn, thị trường nhập khẩu tư liệu sản xuất quan trọng của Việt Nam vẫn giữ được tốc độ tăng ở mức thấp, đang trên đà phục hồi, nhưng nền tảng phát triển kinh tế chưa thật sự vững chắc. Quý I/2024, GDP của Trung Quốc tăng 1,6% so quý trước.
Kinh tế nước ta vẫn đối mặt với những khó khăn thách thức không hề nhỏ
Trong nước, kinh tế nước ta vẫn đối mặt với những khó khăn thách thức không hề nhỏ của nền kinh tế có độ mở lớn, tổng cầu tiêu dùng phục hồi chậm, đan xen với thách thức mang yếu tố chủ quan từ nội tại của nền kinh tế.
Vấn đề thể chế, giải phóng mặt bằng, nguyên vật liệu sử dụng cho xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông là bài toán nan giải đối với nỗ lực đẩy nhanh tốc độ giải ngân vốn đầu tư công.
Khu vực doanh nghiệp vẫn đối mặt với khó khăn về thị trường đầu ra, thiếu đơn hàng, thiếu lao động có kỹ năng. Theo báo cáo của VCCI, trong năm 2024, chỉ khoảng 27% doanh nghiệp kỳ vọng sẽ mở rộng sản xuất, thấp hơn 5 điểm phần trăm số kỳ vọng của năm 2022. Khó khăn của doanh nghiệp được phản ánh qua số doanh nghiệp rời bỏ thị trường rất cao, có thời điểm cao hơn cả số doanh nghiệp gia nhập.
Tổng cầu tiêu dùng trong nước và thế giới phục hồi chậm, doanh nghiệp khó khăn trong tìm kiếm thị trường tiêu thụ, khả năng tài chính hạn hẹp là nguyên nhân chủ yếu khiến số doanh nghiệp rút khỏi thị trường trong 6 tháng đầu năm 2024 ở mức cao, gần xấp xỉ với số doanh nghiệp gia nhập thị trường.
Trong 6 tháng có 119.612 doanh nghiệp gia nhập thị trường, có 110.316 doanh nghiệp rút khỏi thị trường. Bình quân một tháng trong 6 tháng đầu năm cả nước có 19.935 doanh nghiệp gia nhập thị trường, đồng thời cũng có 18.386 doanh nghiệp rút khỏi thị trường.
Đối với nền kinh tế, số doanh nghiệp gần như không thay đổi nhưng năng lực sản xuất kinh doanh bị suy giảm.
Trong 6 tháng đầu năm 2024, tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình và Chính phủ tăng 5,78%; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá so sánh chỉ tăng 5,7% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 tăng 8,8%).
Điều này phản ánh khó khăn của các hộ gia đình khi việc làm và thu nhập vẫn bị ảnh hưởng do sự phục hồi chậm và yếu của nền kinh tế; tỷ lệ hộ gia đình gặp khó khăn về tài chính còn cao, phải thắt chặt chi tiêu.
Kinh tế nước ta phục hồi tích cực qua từng tháng trên hầu hết các lĩnh vực
Trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước còn nhiều khó khăn, bất định. Nỗ lực của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương trong nắm bắt tình hình, chủ động đưa ra các giải pháp ứng phó, linh hoạt, kịp thời, trọng tâm, trọng điểm trước các vấn đề phát sinh, điều hành tỷ giá hối đoái phù hợp; với sự đồng hành, phối hợp chặt chẽ của Quốc hội; đặc biệt, với sự năng động vượt khó của cộng đồng doanh nghiệp và các hộ kinh doanh là những yếu tố cơ bản dẫn tới kinh tế nước ta 6 tháng đầu năm 2024 phục hồi tích cực qua từng tháng trên hầu hết các lĩnh vực.
Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; chỉ số giá tiêu dùng tháng 6/2024 tăng 0,17% so với tháng trước, tăng 1,4% so với tháng 12/2023, tăng 4,34% so với cùng kỳ năm trước, lạm phát bình quân 6 tháng đầu năm 2024 được kiểm soát ở mức 4,08%; thúc đẩy tăng trưởng cả 3 khu vực; các cân đối lớn được bảo đảm, tạo cơ sở và niềm tin thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội cả năm 2024 đã được Quốc hội thông qua.
Trong khó khăn, thách thức luôn xuất hiện cơ hội. Năm 2024 và các năm tiếp theo, kinh tế nước ta có những thời cơ và vận hội mà không phải quốc gia nào cũng có được để phát huy hiệu quả hơn các động lực hiện có và tạo dựng các động lực mới cho phát triển.
Chính phủ kiến tạo lực đẩy, phát huy tối đa động lực đầu tư công
Điểm sáng nổi bật, có ý nghĩa quan trọng, nâng cao năng lực, tạo nền tảng cho phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế trong 6 tháng đầu năm 2024 đó là Chính phủ đã kiến tạo lực đẩy và phát huy tối đa khả năng giải ngân vốn đầu tư công.
Với chỉ đạo quyết liệt, thường xuyên, liên tục của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, lãnh đạo các địa phương, vấn đề giải phóng và bàn giao mặt bằng sạch đã có bước chuyển biến đáng khích lệ, đáp ứng về thời gian của các nhà thầu.
Tuy vậy, thiếu hụt nguyên vật liệu san lấp nền đang đe doạ tiến độ giải ngân vốn đầu tư công. Trước thực trạng này, Chính phủ và các địa phương đã có nhiều giải pháp xử lý cho từng dự án ở từng vùng.
Chính phủ đã kiến nghị Quốc hội cho phép kéo dài thời gian thực hiện cơ chế đặc thù về khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường đến hết năm 2024 hoặc đến khi hoàn thành các dự án thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội.
Cùng với đó, Thủ tướng Chính phủ đã kiên quyết chỉ đạo và đôn đốc thực hiện giải ngân vốn đầu tư công các dự án trọng điểm quốc gia nhằm phát huy vai trò kích hoạt, tạo không gian phát triển mới, dẫn dắt các nguồn lực xã hội đầu tư cho phát triển.
Trong 6 tháng đầu năm 2024, vốn đầu tư công thực hiện ước đạt 244,4 nghìn tỷ đồng, bằng 33,8% kế hoạch năm và tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 bằng 32,2% kế hoạch và tăng 22,5%).
Vốn đầu tư công thực hiện của các bộ, ngành, cơ quan trung ương đạt 37,8% kế hoạch cao hơn mức thực hiện bình quân chung của cả nước nhưng tốc độ giải ngân giảm 3,2% so với cùng kỳ năm trước. Vốn đầu tư công thực hiện của địa phương đạt 33,1% kế hoạch và tăng 4,9%.
Hoàn thiện thể chế, môi trường đầu tư minh bạch, thu hút và giải ngân vốn FDI khởi sắc
Thời gian qua, Chính phủ đã tập trung thực hiện cải cách và hoàn thiện thể chế, dỡ bỏ các rào cản trong kinh doanh và đầu tư, tạo môi trường thông thoáng, minh bạch được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá là cởi mở và thân thiện.
Đặc biệt, Chính phủ đã nới lỏng quy định và tỷ lệ sở hữu nước ngoài tại các công ty niêm yết, giảm bớt gánh nặng cho nhà đầu tư, cho phép nhà đầu tư nước ngoài đầu tư không giới hạn vào trái phiếu Chính phủ.
Thế mạnh của nền kinh tế đã biến Việt Nam trở thành thị trường hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, là điểm đến đáng để đầu tư. Trong 6 tháng đầu năm 2024 vốn FDI đăng ký đạt gần 15,19 tỷ USD, tăng 13,1% so với cùng kỳ năm trước.
Số vốn FDI giải ngân đạt 10,84 tỷ USD, tăng 8,2%, tăng cao nhất so với cùng kỳ năm trước trong 5 năm gần đây, phản ánh các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện đúng cam kết tại thị trường Việt Nam, đồng thời phản ánh năng lực hấp thu và giải ngân vốn đầu tư của nền kinh tế.
Điểm đáng chú ý về vốn FDI tại Việt Nam trong 6 tháng là số dự án mới và số vốn mới đăng ký rất cao. Trong 6 tháng đầu năm 2024 so với cùng kỳ năm trước có 1.538 dự án được cấp phép, tăng 18,9%; với số vốn đăng ký đạt 9,54 tỷ USD, tăng 46,9%.
Đây là tín hiệu tốt, chúng ta kỳ vọng lượng vốn đăng ký mới này sẽ sớm được giải ngân, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong năm 2024 và các năm tiếp theo.
Phát huy vai trò của nền kinh tế kết nối, thúc đẩy động lực tăng trưởng dựa vào xuất khẩu
Trong những năm qua, Việt Nam đã hội nhập sâu, rộng vào khu vực và thế giới, đã ký và thực hiện nhiều hiệp định thương mại tự do với hơn 60 đối tác, phủ khắp các châu lục, đưa mức độ tự do hóa tiếp cận thị trường của Việt Nam ngang hàng với Singapore.
Trên góc độ thương mại và đầu tư quốc tế, Việt Nam không có đối thủ về quan hệ đối tác và mức độ cởi mở trong tiếp cận thị trường. Kinh tế nước ta ngày càng khẳng định và củng cố vai trò quan trọng trong chiến lược đa dạng hoá chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia.
Trong bối cảnh triển vọng thương mại toàn cầu năm 2024 bấp bênh, đối mặt với khó khăn, thách thức, với sự năng động của doanh nghiệp trong nắm bắt tín hiệu thị trường, chủ động tìm kiếm đơn hàng, giữ được thị trường truyền thống, quan trọng, nhiều tiềm năng, mở thêm thị trường mới; với tinh thần trách nhiệm, nỗ lực của Chính phủ trong đàm phán mở thêm thị trường xuất khẩu chính ngạch cho các mặt hàng xuất khẩu.
Hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa là điểm sáng trong bức tranh kinh tế 6 tháng đầu năm 2024 của nước ta với xuất siêu 6 tháng đạt 11,63 tỷ USD, phản ánh vai trò, vị thế của kinh tế Việt Nam trong hoạt động thương mại quốc tế và năng lực của nền kinh tế trong việc củng cố và thúc đẩy động lực tăng trưởng dựa vào xuất khẩu, giữ vững ổn định vĩ mô thông qua gia tăng nguồn lực ngoại tệ trong bối cảnh giá trị đồng USD tăng, tạo thêm dư địa để Ngân hàng Nhà nước giữ ổn định tỷ giá, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng.
Bức tranh xuất, nhập khẩu hàng hóa trong 6 tháng đầu năm có sắc màu tươi mới đó là tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của khu vực kinh tế trong nước đạt 20,6%, cao hơn nhiều tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu 12,3% của khu vực FDI.
Tuy vậy tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước còn thấp, chỉ chiếm 28,1% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn nền kinh tế. Xuất, nhập khẩu hàng hoá vẫn phụ thuộc vào khu vực FDI.
Tiếp theo thành tích và dấu ấn của năm trước, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng rau quả, nông sản tăng 28,2% và gạo tăng 32% so với cùng kỳ năm trước. Một số mặt hàng xuất khẩu truyền thống là thế mạnh của Việt Nam đã chấm dứt đà suy giảm, tăng trưởng cao trở lại phản ánh sản xuất của nền kinh tế đã có dấu hiệu phục hồi.
Tổng cầu đầu tư trong nước khởi sắc, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa có thể vượt mốc lịch sử
Trong 6 tháng đầu năm 2024, tổng cầu đầu tư của nền kinh tế đã khởi sắc hơn so với cùng kỳ năm 2023. Tích luỹ tài sản phản ánh năng lực và triển vọng phát triển sản xuất của nền kinh tế tăng 6,72%, cao hơn 5,57 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.
Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt gần 368,53 tỷ USD, tăng 15,7% so với cùng kỳ năm trước; đáng chú ý, trong 6 tháng đầu năm nay, kim ngạch xuất khẩu bình quân đạt 31,68 tỷ USD/tháng.
Nếu duy trì được mức xuất khẩu này trong nửa cuối năm 2024 thì tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa năm nay ước đạt 380,16 tỷ USD, vượt mốc lịch sử 371,82 tỷ USD của năm 2022.
Kinh tế phục hồi và phát triển ổn định, lạm phát được kiểm soát dưới mức mục tiêu là sức mạnh nội tại của nền kinh tế đã minh chứng mức độ thành công trong công tác điều hành của Chính phủ giữ vững ổn định vĩ mô, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, là cơ sở thực hiện thành công mục tiêu tăng trưởng và kiểm soát lạm phát cả năm 2024.
Một số tồn tại cần tháo gỡ để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Đầu tư công là động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng, nâng cao năng lực sản xuất và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Tuy vậy, hiện nay giải ngân vốn đầu tư công vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn vướng mắc, như: vướng mắc liên quan tới phân bổ vốn; giải phóng mặt bằng; cơ chế chính sách giao một địa phương làm cơ quan chủ quản thực hiện đầu tư công các dự án giao thông đường bộ qua nhiều địa phương; biến động giá và khan hiếm nguồn cung nguyên vật liệu cho thi công; một bộ phận cán bộ sợ sai, sợ trách nhiệm....
Những vướng mắc này đã được chỉ ra trong nhiều năm qua, nhưng chưa có giải pháp khắc phục triệt để, hữu hiệu, ảnh hưởng tới tiến độ giải ngân vốn đầu tư công.
Ước tính tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công trong 6 tháng đầu năm 2024 đạt 28% kế hoạch năm, thấp hơn 0,63 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ giải ngân chững lại trước thực tế kế hoạch vốn đầu tư công năm 2024 chỉ bằng 95% kế hoạch của năm 2023.
Hoạt động thương mại hàng hóa quốc tế của nước ta phụ thuộc vào số ít thị trường. Kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Mỹ chiếm 28,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn nền kinh tế, trong khi đó kim ngạch nhập khẩu từ thị trường Trung Quốc chiếm 37,5% tổng kim ngạch nhập khẩu. Xuất siêu của nền kinh tế dựa vào khu vực FDI, khu vực kinh tế trong nước vẫn nhập siêu.
Điều này phản ánh hoạt động thương mại hàng hoá quốc tế của Việt Nam phụ thuộc vào khu vực FDI, dễ bị tổn thương bởi các cú sốc, những bất ổn kinh tế và điều chỉnh chính sách thương mại để hạn chế thâm hụt cán cân thương mại hàng hoá của các đối tác thương mại quan trọng này.
Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đã phục hồi nhẹ nhưng chưa vững chắc.
Nhiều doanh nghiệp dần phục hồi, tìm kiếm được đơn hàng nhưng đang phải đối mặt với tình trạng thiếu lao động. Nhiều doanh nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bình Dương không tuyển đủ lao động cần thiết do lao động không đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp.
Cùng với đó, chính sách tiền lương, bảo hiểm và các hỗ trợ nhằm bảo đảm an sinh xã hội chưa đáp ứng được nguyện vọng của người lao động.
Chính phủ luôn khẩn trương, linh hoạt, kịp thời ban hành các chính sách, giải pháp hỗ trợ nền kinh tế, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và hộ kinh doanh. Tuy vậy, việc tổ chức thực hiện một số chính sách, giải pháp còn chậm và chưa hiệu quả.
Bên cạnh đó, một số chính sách, giải pháp đúng và trúng nhưng thực hiện quá mức cần thiết gây bất ổn cho nền kinh tế. Chẳng hạn, chính sách giảm lãi suất huy động và cho vay vừa qua là cần thiết, nhưng mức độ giảm quá mức đã không mang lại hiệu quả như mong muốn vì khó khăn chủ yếu của doanh nghiệp đến từ sự suy yếu của thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Trong bối cảnh thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản trầm lắng, việc hạ lãi suất huy động xuống mức thấp nhất trong 20 năm qua là một trong những nguyên nhân đẩy người dân lao vào mua vàng với mức giá cao bất thường.
Một lượng vốn lớn trong dân không được huy động vào hệ thống ngân hàng, rời bỏ thị trường, chôn chặt trong hộ gia đình, ảnh hưởng tới giá trị VNĐ và giảm hiệu quả của chính sách tiền tệ.
Ngân hàng Nhà nước cần tính toán liều lượng, kiên định thực hiện chính sách tín dụng và lãi suất phù hợp, hài hoà với nhu cầu, đảm bảo lợi ích của các thực thể có liên quan trong nền kinh tế, giữ giá trị VND, giảm áp lực lạm phát tiền tệ đối với nền kinh tế.
Phác họa bức tranh tăng trưởng kinh tế cả năm 2024
Tổng sản phẩm trong nước 6 tháng đầu năm 2024 tăng 6,42%. Trong đó giá trị tăng thêm của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản (khu vực I) tăng 3,38%. Khu vực công nghiệp và xây dựng (khu vực II) tăng 7,51% và khu vực dịch vụ (khu vực III) tăng 6,64% so với kịch bản tăng trưởng GDP để cả năm đạt mục tiêu tăng 6% - 6,5% thì khu vực I tăng cao hơn kịch bản mức cao 0,18 điểm phần trăm; khu vực II cao hơn 1,41 điểm phần trăm so với mức cao trong kịch bản; và khu vực III cao hơn 0,04 điểm phần trăm so với mức cao trong kịch bản.
Bức tranh tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm 2024 cho thấy cả 3 khu vực đều tăng cao hơn mức cao trong kịch bản để GDP cả năm đạt mức 6,5%.
Khu vực công nghiệp và xây dựng khởi sắc, với giá trị tăng thêm tăng 7,51%; trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 8,67% cùng với ngành xây dựng tăng 7,34% đã lấy lại vai trò là động lực tăng trưởng của nền kinh tế.
Khu vực dịch vụ đã lấy lại được vai trò dẫn dắt tăng trưởng, với tốc độ tăng đạt 6,64%, cao hơn 0,31 điểm phần trăm của 6 tháng đầu năm 2023.
Tuy vậy, một số ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn trong khu vực III như: Bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm đều có mức tăng thấp hơn so với 6 tháng đầu năm 2023.
Với kết quả tăng trưởng kinh tế của 6 tháng đầu năm, để tốc độ tăng GDP cả năm 2024 đạt 6,0% -6,5% đòi hỏi tốc độ tăng GDP của 2 quý còn lại trong năm phải đạt trên 6,5% đây là mức tăng có thể đạt được nhưng không dễ trong thực tế khu vực I khó có thể tăng cao trong cả năm; vốn đầu tư công thấp hơn năm trước; khu vực dịch vụ tăng chậm lại do các hộ gia đình vẫn khó khăn về tài chính.
Năm 2024: thành công trong kiểm soát lạm phát mục tiêu
Chính sách tiền tệ nới lỏng; biến động tỷ giá và giá hàng hoá trên thị trường thế giới có xu hướng tăng là những yếu tố chủ yếu tạo áp lực lạm phát trong 6 tháng cuối năm 2024.
Bên cạnh đó, áp lực lạm phát còn do các nguyên nhân: giá gạo trong nước tăng theo giá gạo xuất khẩu; giá điện tăng do chi phí sản xuất điện tăng và nhu cầu sử dụng điện trong sản xuất và tiêu dùng tăng; điều chỉnh tăng giá dịch vụ y tế, giáo dục; cải cách tiền lương của khu vực nhà nước và tăng lương tối thiểu cho khu vực doanh nghiệp từ 1/7/2024; chỉ số giá sản xuất tăng; giá hàng hóa và dịch vụ tăng vào dịp lễ, tết cuối năm.
Tỷ giá hối đoái giữa VNĐ và USD biến động khó lường. Trong hai tuần cuối tháng 6/2024, chỉ số USD Index trên thị trường quốc tế có xu hướng mạnh lên đạt mức 105,65 điểm.
Thêm nữa, tỷ giá hối đoái có thể gia tăng thêm trong quý III năm nay khi cán cân thương mại đang nghiêng về nhập siêu để chuẩn bị cho hoạt động sản xuất kinh doanh và xuất khẩu vào cuối năm. Tuy vậy, Fed giảm lãi suất sẽ giảm áp lực và mức tăng tỷ giá giữa VNĐ và USD.
Bên cạnh những yếu tố tạo áp lực lạm phát, nền kinh tế cũng có những yếu tố giúp kiềm chế lạm phát, đó là: nguồn lương thực, thực phẩm dồi dào, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu; tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ thuế, như hỗ trợ giảm thuế môi trường đối với xăng dầu, giảm thuế VAT.
Với các yếu tố kiềm chế lạm phát, Chính phủ có kinh nghiệm trong điều hành giá hàng hóa và dịch vụ chiến lược, cùng với tổng cầu tiêu dùng còn thấp, mục tiêu kiểm soát lạm phát năm 2024 trong khoảng 4%- 4,5% đã được Quốc hội thông qua hoàn toàn khả thi.
Năm 2024, cần làm gì để thực hiện thành công mục tiêu tăng trưởng kinh tế
Để thực hiện thành công toàn diện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024, đặc biệt là mục tiêu tăng trưởng GDP và kiểm soát lạm phát, trên cơ sở diễn biến tình hình kinh tế trong nước và thế giới trong 6 tháng đầu năm 2024 và dự báo tình hình kinh tế trong thời gian tới, ngày 18/6/2024, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 93/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để thúc đẩy tăng trưởng, kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô.
Nghị quyết đã đề ra mục tiêu, phương châm và 9 nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm một cách khá toàn diện, cụ thể, đồng bộ, đề cập tới nhiệm vụ của từng bộ, ngành, địa phương cần triển khai thực hiện trong thời gian tới với Mục tiêu: Tiếp tục ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng gắn với củng cố, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế.
Điều hành hài hòa, hiệu quả, cân bằng hợp lý giữa tăng trưởng và kiểm soát lạm phát; phấn đấu tốc độ tăng GDP đạt cận trên chỉ tiêu Quốc hội giao, kiểm soát tốc độ tăng CPI đạt cận dưới chỉ tiêu Quốc hội giao.
Dựa vào các nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm trong Nghị quyết số 93/NQ-CP, các bộ, ngành, địa phương cần cụ thể hóa những nhiệm vụ được giao, xây dựng lộ trình, kế hoạch thực hiện.
Văn phòng Chính phủ theo dõi, đôn đốc, định kỳ hằng tháng tổng hợp, đánh giá việc triển khai thực hiện của các bộ, ngành, địa phương báo cáo Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ kịp thời chỉ đạo.
Cùng với thực hiện đầy đủ 9 nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng nêu ra trong Nghị quyết số 93/NQ-CP, thiết nghĩ, Chính phủ cần tập trung thực hiện một số nhóm giải pháp sau:
Một là, tổng cầu tiêu dùng cuối cùng trong nước chiếm trên 70% GDP của nền kinh tế.
Để thúc đẩy sản xuất, giải quyết việc làm, tạo cơ sở tăng tổng cầu tiêu dùng trong nước trong thời gian tới, Chính phủ cần thực hiện giải pháp kích cầu tiêu dùng thông qua chính sách thuế và an sinh xã hội như giảm thuế thu nhập cá nhân; giảm thuế VAT với thời hạn dài hơn, tỷ lệ cao hơn 2%; giảm giá dịch vụ hàng không, đường sắt để kích cầu du lịch trong nước và thu hút du lịch nước ngoài; tăng cường các đợt khuyến mại với mục tiêu Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam.
Thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi giải quyết vấn đề nhà ở xã hội cho người lao động có thu nhập thấp, tạo an tâm về chỗ ở, khuyến khích tinh thần làm việc, nâng cao mức sống.
Hai là, cùng với thúc đẩy đầu tư công, thu hút vốn FDI, Chính phủ và các địa phương cần tập trung phục hồi và thúc đẩy đầu tư của khu vực ngoài nhà nước bằng các cơ chế, chính sách và giải pháp đặc thù trong bối cảnh khu vực ngoài nhà nước có hạn chế rất lớn về nguồn vốn; kỹ năng quản trị, hội nhập; năng lực và kinh nghiệm quản lý; nguồn nhân lực có kiến thức và tay nghề.
Chính phủ cần kích hoạt lại, khơi thông nguồn lực đầu tư tư nhân trở thành động lực tăng trưởng quan trọng trong dài hạn.
Ba là, với vai trò quan trọng và ngày càng được củng cố của kinh tế nước ta trong chiến lược đa dạng hóa chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia, Chính phủ cần có giải pháp tăng cường năng lực cạnh tranh của môi trường đầu tư, kinh doanh, phát triển cơ sở hạ tầng, tập trung nâng cao năng lực cơ sở hạ tầng giao thông, hạ tầng công nghiệp, công nghệ, thông tin và logistics đồng bộ.
Ứng dụng công nghệ cao, trí tuệ nhân tạo, phát triển xanh là xu hướng tất yếu, làm thay đổi rất nhanh cấu trúc kinh tế thế giới; cùng với đó, chuỗi cung ứng toàn cầu được sắp xếp lại.
Chính phủ cần nắm bắt thời cơ, khẩn trương xây dựng chiến lược phát triển cho từng động lực tăng trưởng mới, với các giải pháp toàn diện, đồng bộ; với chính sách và cơ chế nổi trội, đi trước một bước; với kế hoạch và lộ trình thực hiện chi tiết, cụ thể, đầu tư hạ tầng cho từng lĩnh vực của các động lực tăng trưởng mới như chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn, sản xuất chip bán dẫn, hydorgen, phát triển trí tuệ nhân tạo để thu hút các tập đoàn, doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đầu tư vào các ngành là động lực tăng trưởng mới.
Bốn là, chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu có vai trò quan trọng trong bối cảnh toàn cầu hóa, định hình lại chuỗi cung ứng và căng thẳng thương mại gia tăng, để phát huy tối đa lợi thế của nền kinh tế kết nối, Chính phủ cần hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về xuất, nhập khẩu; thực hiện chính sách tài khóa và tiền tệ hỗ trợ doanh nghiệp gia tăng nguồn cung, tiết giảm chi phí nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt.
Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, đa dạng hoá thị trường xuất, nhập khẩu; đặc biệt đối với thị trường nhập khẩu để giảm thiểu tác động của những cú sốc từ các thị trường này.
Chính phủ cần khẩn trương nắm bắt các ngành, lĩnh vực sẽ trở thành xu hướng phát triển của kinh tế thế giới trong thời gian tới, kịp thời sửa đổi, bổ sung Chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu để đưa kinh tế Việt Nam hòa vào dòng chảy, thuộc nhóm đi tiên phong trên một số lĩnh vực của kinh tế thế giới.
Bộ Công Thương cần tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin thị trường; hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng hiệu quả cơ hội và thực hiện đầy đủ cam kết từ các Hiệp định thương mại để đẩy mạnh xuất khẩu; đồng thời tăng cường tuyên truyền về quy tắc xuất xứ và cấp Giấy chứng nhận xuất xứ; tập trung xây dựng hình ảnh doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam uy tín.
Năm là, để ngăn chặn sự đứt gãy chuỗi cung ứng lao động, Chính phủ và các địa phương thực hiện chương trình đào tạo nghề và kỹ năng đáp ứng yêu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, Chính phủ và các địa phương cần thực thi các chính sách, giải pháp cải thiện và nâng cao đời sống người lao động, như hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động tại các khu công nghiệp.
Cùng với đó, doanh nghiệp cần chủ động nâng mức lương lên cao hơn để phù hợp với điều kiện sống của lao động và có chế độ chăm sóc, đãi ngộ hấp dẫn hơn nhằm tuyển dụng đủ lao động đáp ứng nhu cầu sản xuất.
Sáu là, doanh nghiệp, tổ chức, hộ gia đình, hộ kinh doanh, cá nhân hoạt động sản xuất khẩn trương nắm bắt, hiểu đúng, đầy đủ những nội dung gia hạn thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất trong năm 2024 quy định tại Nghị định số 64/2024/NĐ-CP ngày 17/6/2024 của Chính phủ để tính toán nguồn vốn có được do Nhà nước gia hạn để tái đầu tư, cắt giảm chi phí sản xuất, kinh doanh. Doanh nghiệp, các hộ sản xuất kinh doanh cần tận dụng hiệu quả cú hích từ chính sách tài khoá của Chính phủ để phục hồi, mở rộng sản xuất kinh doanh./.
Nguyễn Bích Lâm
Nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê