Các đồng chí Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ và các ĐBQH tham dự phiên họp
1. Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo;
2. Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi);
3. Luật Đường sắt (sửa đổi);
4. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng;
5. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Công đoàn, Luật Thanh niên và Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở;
6. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc phòng, Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân, Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng, Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật Biên phòng Việt Nam, Luật Phòng không nhân dân, Luật Lực lượng dự bị động viên, Luật Phòng thủ dân sự, Luật Quản lý, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự, Luật Dân quân tự vệ, Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh;
7. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Nghị quyết của Quốc hội về chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Quy Nhơn – Pleiku;
Nghị quyết của Quốc hội về chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng đường vành đai 4 Thành phố Hồ Chí Minh;
Nghị quyết của Quốc hội về điều chỉnh chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu giai đoạn 1;
Nghị quyết của Quốc hội về Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam; Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Hải Phòng;
Nghị quyết của Quốc hội về phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước năm 2023;
Nghị quyết của Quốc hội về việc thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, các luật tố tụng và luật khác có liên quan.
Sau khi thông qua 14 luật và nghị quyết, Quốc hội họp phiên bế mạc (phiên họp được truyền hình, phát thanh trực tiếp trên Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam).
Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV được chia làm 2 đợt. Đợt 1 từ ngày 5-29/5 và đợt 2 từ ngày 11-27/6.
Tại Kỳ họp này, Quốc hội xem xét, quyết định hơn 50 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp, gồm các nghị quyết về công tác lập hiến; các luật, nghị quyết thuộc công tác lập pháp và nhiều nội dung quan trọng khác.
Trong đó, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng mang tính chiến lược cả về chính trị và pháp lý nhằm thể chế hóa kịp thời các chủ trương lớn của Đảng, đặc biệt là về sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước theo hướng "tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, gần dân, sát dân, sát thực tiễn".
Đồng thời, tại Kỳ họp, Quốc hội xem xét các nhóm nội dung về kinh tế-xã hội, ngân sách nhà nước; ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân gửi đến Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV; kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri gửi đến Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV.
Bên cạnh đó, Quốc hội đã tiến hành phiên chất vấn. Hai nhóm vấn đề được lựa chọn chất vấn lần này thuộc lĩnh vực tài chính và giáo dục-đào tạo. Đây là những nội dung quan trọng, tác động trực tiếp tới ổn định kinh tế vĩ mô, đời sống nhân dân và tương lai phát triển của đất nước. Bộ trưởng Bộ Tài chính và Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo trả lời chính tại phiên chất vấn.
Cùng tham gia trả lời chất vấn có Phó Thủ tướng Chính phủ Hồ Đức Phớc, Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng.
Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Hòa Bình đã thay mặt Chính phủ báo cáo và trực tiếp trả lời chất vấn của các vị đại biểu Quốc hội.
Phiên chất vấn tại kỳ họp được đánh giá là đáp ứng các yêu cầu thực tiễn, đúng và trúng những vấn đề cử tri, nhân dân và các vị đại biểu Quốc hội quan tâm. Không khí nghị trường sôi nổi, thẳng thắn trên tinh thần xây dựng, trách nhiệm cao, các câu hỏi cơ bản thuộc phạm vi chất vấn cụ thể, rõ ràng. Các Bộ trưởng đã thể hiện tinh thần cầu thị, trách nhiệm, nắm chắc tình hình, không né tránh, trả lời thẳng vào các vấn đề và có cam kết, giải pháp cụ thể trong thời gian tới.
Với những nội dung được xem xét, quyết định tại nghị trường lần này, Kỳ họp thứ 9 của Quốc hội thực sự là kỳ họp có ý nghĩa lịch sử, thực hiện đột phá về thể chế và xem xem xét, quyết định nhiều vấn đề quan trọng để đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, phát triển giàu mạnh, thịnh vượng và văn minh.
Với 435/438 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành (chiếm 91,00% tổng số đại biểu Quốc hội), Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Khoa học, công nghệ (sửa đổi) và đổi mới sáng tạo.
Luật gồm 7 chương, 73 điều, có hiệu lực có hiệu lực thi hành từ ngày 1/10/2025, trừ trường hợp quy định tại các điều 15, 61, 62, 63, 64, 65 và 66 của Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2025.
Luật đã thể chế hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW, Nghị quyết số 68-NQ/TW; kế thừa các nội dung cốt lõi trong Nghị quyết số 193/2025/QH15 (từ Điều 3 đến Điều 9), đồng thời có quy định thông thoáng, mạnh mẽ, đột phá hơn; đã được rà soát, chỉnh lý bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, với các luật và các dự thảo Luật trình Quốc hội xem xét, thông qua tại Kỳ họp này.
Về cơ chế tài chính, quản lý tài sản và kết quả nghiên cứu trong hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, Luật quy định theo hướng chuyển mạnh từ “quản lý chi tiêu” sang “quản trị theo kết quả”, theo đó khoán chi theo kết quả cuối cùng, tăng tính linh hoạt và tự chủ; giao quyền sở hữu tài sản và kết quả nghiên cứu cho tổ chức chủ trì ngay khi hình thành, không hoàn trả ngân sách, không ghi tăng vốn nhà nước; thương mại hóa kết quả nghiên cứu linh hoạt, lợi nhuận được tái đầu tư hoặc dùng để khuyến khích sáng tạo; phân bổ theo hiệu quả đầu ra; thiết lập hệ thống quỹ tài chính đồng bộ, chấp nhận rủi ro có kiểm soát, hỗ trợ linh hoạt cho các hoạt động đổi mới sáng tạo.
Với 441/442 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành (chiếm 92,26% tổng số đại biểu Quốc hội), Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi).
Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi) gồm 8 chương, 73 điều, có hiệu lực thi hành có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2026.
Luật quy định về phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử; an toàn bức xạ, bảo vệ bức xạ, an toàn hạt nhân và an ninh hạt nhân; nhà máy điện hạt nhân, lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu; ứng phó sự cố bức xạ, sự cố hạt nhân, bồi thường thiệt hại bức xạ, thiệt hại hạt nhân; thanh sát hạt nhân và quản lý nhà nước trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.
Luật này áp dụng đối với tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế tiến hành hoạt động trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử tại Việt Nam.
Luật đã được rà soát, chỉnh lý các nội dung liên quan đến đầu tư, xây dựng, vận hành, chấm dứt vận hành nhà máy điện hạt nhân; quy định về việc giám sát an toàn và bảo đảm an ninh trong suốt vòng đời của nhà máy điện hạt nhân và thể hiện như tại các điều từ Điều 41 đến 51, bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, phù hợp với thông lệ quốc tế và hướng dẫn của Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA).
Đồng thời, Luật cũng quy định chuyển tiếp đối với các cơ chế, chính sách đặc biệt để đầu tư, xây dựng dự án điện hạt nhân, dự án lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu được ban hành trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành (khoản 1 Điều 73) và giao Chính phủ ban hành văn bản quy phạm pháp luật để kịp thời điều chỉnh, giải quyết các khó khăn, vướng mắc (khoản 6 Điều 73); có các biện pháp thúc đẩy tiến độ các dự án điện hạt nhân đang được triển khai.
Với 426/440 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành (chiếm 89,12% tổng số đại biểu Quốc hội), Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Đường sắt (sửa đổi).
Luật gồm 4 chương, 59 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2026, trừ trường hợp quy định tại khoản 1, điểm c, điểm d khoản 3 Điều 56 và Mục 2, Mục 3 Chương II của Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2025.
Luật quy định về hoạt động đường sắt; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động đường sắt. Luật áp dụng đối với tổ chức, cá nhân trong nước; tổ chức, cá nhân nước ngoài có liên quan đến hoạt động đường sắt trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thực hiện chủ trương của Đảng về phân cấp, phân quyền, Luật đã quy định phân quyền từ Thủ tướng Chính phủ cho Bộ trưởng Bộ Xây dựng về phê duyệt quy hoạch mạng lưới đường sắt; đồng thời, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, Luật đã bổ sung nội dung sửa đổi Luật Quy hoạch để bảo đảm đồng bộ, thống nhất.
Để thể chế hóa kịp thời chủ trương đường lối quan trọng của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân tại Nghị quyết số 68-NQ/TW, Luật đã có quy định về đầu tư dự án đường sắt bằng nguồn vốn ngoài nhà nước.
Trong đó, để khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp tham gia đầu tư dự án đường sắt theo phương thức đối tác công tư hoặc đầu tư trực tiếp, dự thảo Luật đã quy định các dự án này được nhà nước đảm bảo kinh phí bồi thường, hỗ trợ tái định cư và phần kinh phí này không tính vào tỷ lệ vốn nhà nước tham gia vào dự án khi thực hiện theo phương thức đối tác công tư (PPP)
Với 435/443 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành (chiếm 91,00% tổng số đại biểu Quốc hội), Quốc hội biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng.
Luật gồm 3 điều, sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng.
Luật quy định Chính phủ hướng dẫn thực hiện Luật này.
Trình bày Báo cáo tóm tắt tóm tắt giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Thị Hồng cho biết Chính phủ sẽ chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phối hợp với các cơ quan có liên quan để rà soát, đánh giá, đề xuất các nội dung nhằm triển khai, thi hành Luật, đảm bảo thống nhất, hiệu quả, trong đó xử lý một số vấn đề như: cơ chế kiểm tra, thanh tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu cũng như trách nhiệm của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong thực hiện thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu.
Đáng chú ý, Luật đã chuyển thẩm quyền cho vay đặc biệt lãi 0%/năm mà không có tài sản đảm bảo từ Thủ tướng Chính phủ cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quyết định, từ ngày 15/10.
Luật cũng quy định việc cho vay đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ được thực hiện khi tổ chức tín dụng rơi vào tình trạng rất khó khăn về thanh khoản hoặc để thực hiện phương án phục hồi, phương án chuyển giao bắt buộc với mục tiêu bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền, bảo đảm an toàn của hệ thống tổ chức tín dụng...
Với 440/447 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành (chiếm 92,05% tổng số đại biểu Quốc hội), Quốc hội biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Công đoàn, Luật Thanh niên và Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Luật gồm 5 Điều, có hiệu lực thi hành từ 1/7/2025. Luật đã bám sát, cụ thể hóa đầy đủ, chính xác các quy định tại Điều 9, Điều 10, khoản 1 Điều 84 và Điều 110 Hiến pháp 2013 (đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị quyết số 203/2025/QH15), nhất là thể hiện rõ mối quan hệ "trực thuộc", các nguyên tắc hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì. Ngoài ra, Luật cũng đã được rà soát, chỉnh lý kỹ để bảo đảm phù hợp, thống nhất với các Luật có liên quan.
Luật quy định các tổ chức chính trị - xã hội (gồm Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam) và các hội quần chúng do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ trực thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, được tổ chức và hoạt động thống nhất trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Luật cũng sửa đổi, bổ sung một số điều trong các Luật: Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Công đoàn, Luật Thanh niên và Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở; để phù hợp với tổ chức chính quyền địa phương hai cấp.
Với 451/451 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành (chiếm 94,35% tổng số đại biểu Quốc hội), Quốc hội biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 11 Luật về quân sự, quốc phòng.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc phòng; Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân; Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng; Luật Nghĩa vụ quân sự; Luật Biên phòng Việt Nam; Luật Phòng không nhân dân; Luật Lực lượng dự bị động viên; Luật Phòng thủ dân sự; Luật Quản lý, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự; Luật Dân quân tự vệ; Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh.
Luật gồm 12 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2025. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 11 Luật về quân sự, quốc phòng bảo đảm phù hợp với chủ trương sắp xếp đơn vị hành chính các cấp và xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp, thống nhất với quy định của pháp luật có liên quan, nhất là Luật Tổ chức chính quyền địa phương.
Với 445/449 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành (chiếm 93,10% tổng số đại biểu Quốc hội), Quốc hội biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự. Luật sửa đổi 120/150 điều, bổ sung mới 1 điều so với Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành.
Luật gồm 2 điều có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7/2025.
Luật bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn của Điều tra viên được bố trí là Trưởng Công an (hoặc Phó Trưởng Công an) cấp xã; thẩm quyền của Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện Công tố và Kiểm sát xét xử Phúc thẩm Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; Chánh Tòa, Phó Chánh tòa Tòa Phúc thẩm Tòa an nhân dân tối cao.
Về thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi thi hành, Luật đã sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định cụ thể khi hết thời hạn 1 năm kể từ ngày nhận được ý kiến của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao mà Chủ tịch nước không có quyết định ân giảm thì cơ quan có thẩm quyền thông báo ngay về việc không có quyết định ân giảm của Chủ tịch nước để Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm tổ chức việc thi hành bản án tử hình theo quy định.
Luật bổ sung một điều quy định có tính nguyên tắc về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp trước khi có yêu cầu dẫn độ của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài (Điều 506a). Các nội dung cụ thể về việc áp dụng biện pháp này sẽ được quy định trong pháp luật về dẫn độ để bảo đảm phù hợp với phạm vi điều chỉnh.
Sáng 27/6, với 446/447 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành (93,31% tổng số đại biểu Quốc hội), Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết của Quốc hội về chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Quy Nhơn - Pleiku.
Theo đó, Nghị quyết nhằm mục tiêu xây dựng tuyến đường bộ cao tốc Quy Nhơn - Pleiku hiện đại, đồng bộ nhằm đáp ứng nhu cầu vận tải, tạo động lực quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên, khu vực duyên hải Trung bộ; kết nối các cửa khẩu quốc tế, các đô thị và cảng biển lớn, Tây Nguyên với khu vực duyên hải Nam Trung Bộ, các hành lang Đông - Tây và các nước trong khu vực, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần hiện thực hóa mục tiêu, nhiệm vụ theo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII và các Nghị quyết của Đảng.
Dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Quy Nhơn - Pleiku khoảng 125 km, chia thành 3 dự án thành phần. Sơ bộ tổng mức đầu tư của Dự án khoảng 43.734 tỷ đồng. Nguồn vốn ngân sách nhà nước bố trí từ nguồn tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách nhà nước năm 2024, nguồn ngân sách trung ương và địa phương giai đoạn 2021 - 2025 và giai đoạn 2026 - 2030.
Việc chuẩn bị đầu tư, thực hiện Dự án từ năm 2025, hoàn thành đưa vào khai thác trong năm 2029.
Với 437/441 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành (91,42% tổng số đại biểu Quốc hội), Quốc hội thông qua Nghị quyết của Quốc hội về chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng đường vành đai 4 Thành phố Hồ Chí Minh.
Nghị quyết nhằm xây dựng trục giao thông chiến lược kết nối vùng Đông Nam Bộ với Tây Nam Bộ và Tây Nguyên, thúc đẩy lưu thông hàng hóa từ các khu công nghiệp, khu đô thị đến các cảng biển, cảng hàng không và ngược lại; kết nối các đô thị, khu công nghiệp trong vùng, tạo liên kết vùng, phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; giảm áp lực giao thông cho khu vực trung tâm đô thị; tạo không gian phát triển mới để khai thác tiềm năng nguồn lực đất đai và tận dụng các khu vực có điều kiện thuận lợi cho phát triển đô thị, góp phần điều tiết dân số khu vực nội đô; thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh theo Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII và các nghị quyết của Đảng.
Theo đó, đầu tư khoảng 159,31 km, chia thành 10 dự án thành phần. Sơ bộ tổng mức đầu tư của Dự án khoảng 120.413 tỷ đồng, bao gồm: Nguồn vốn ngân sách trung ương khoảng 29.688 tỷ đồng; nguồn vốn ngân sách địa phương khoảng 40.093 tỷ đồng; vốn do nhà đầu tư huy động khoảng 50.632 tỷ đồng.
Các dự án thành phần đầu tư theo phương thức đối tác công tư, loại hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (BOT) được áp dụng cơ chế bảo đảm đầu tư, cơ chế chia sẻ phần tăng, giảm doanh thu theo quy định của pháp luật về đầu tư theo phương thức đối tác công tư.
Với 437/441 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành (91,42% tổng số đại biểu Quốc hội), Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết của Quốc hội về điều chỉnh chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu giai đoạn 1.
Nghị quyết điều chỉnh khoản 5 Điều 2 Nghị quyết số 59/2022/QH15 ngày 16/6/2022 của Quốc hội về chủ trương đầu tư Dự án đường bộ cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu giai đoạn 1 như sau: Sơ bộ tổng mức đầu tư Dự án là 21.551 tỷ đồng. Điều chỉnh sơ bộ tổng mức đầu tư, sơ bộ chi phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của các dự án thành phần tại Phụ lục kèm theo Nghị quyết này.
Các nội dung khác thực hiện theo Nghị quyết số 59/2022/QH15.
Với 447/449 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành (93,51% tổng số đại biểu Quốc hội), Quốc hội đã thông qua Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Hải Phòng.
Nghị quyết quy định thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Hải Phòng về quản lý đầu tư; quản lý tài chính, ngân sách nhà nước; quản lý quy hoạch, đô thị, tài nguyên và môi trường; quản lý khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức, chuyên gia, nhà khoa học, người có tài năng đặc biệt, nhà quản lý, người lao động có trình độ cao; thành lập và hoạt động của Khu thương mại tự do thành phố.
Về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố, UBND thành phố chấp thuận chủ trương đầu tư đối với dự án đầu tư xây dựng bến cảng, khu bến cảng có quy mô vốn đầu tư từ 2.300 tỷ đồng trở lên thuộc cảng biển Hải Phòng; chấp thuận điều chỉnh chủ trương đầu tư đối với dự án đầu tư xây dựng bến cảng, khu bến cảng thuộc cảng biển Hải Phòng đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực thi hành.
Trình tự, thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư, điều chỉnh chủ trương đầu tư các dự án quy định tại khoản này được thực hiện theo trình tự, thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư, điều chỉnh chủ trương đầu tư đối với dự án thuộc thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của UBND cấp tỉnh theo quy định của pháp luật về đầu tư.
UBND thành phố tổ chức quản lý, bảo trì các tuyến đường thủy nội địa quốc gia trên địa bàn thành phố; tổ chức quản lý hoạt động của cảng, bến thủy nội địa trên tuyến đường thủy nội địa quốc gia trên địa bàn thành phố.
Ngân sách thành phố được hưởng 100% nguồn thu phí, lệ phí từ tuyến đường thủy nội địa trên tuyến đường thủy nội địa quốc gia và từ quản lý hoạt động cảng, bến thủy nội địa trên địa bàn thành phố. Thành phố được sử dụng nguồn ngân sách nhà nước và các nguồn vốn hợp pháp khác để thực hiện việc đầu tư, bảo trì tuyến đường thủy nội địa, cảng, bến thủy nội địa trên địa bàn theo quy định của pháp luật.
Sáng 27/6, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết của Quốc hội về phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước năm 2023 với 435/441 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành (91,00% tổng số đại biểu Quốc hội).
Nghị quyết bổ sung dự toán thu ngân sách nhà nước năm 2023 số tăng thu ngân sách nhà nước năm 2023 chưa được bổ sung tại Nghị quyết số 1077/NQ-UBTVQH15 ngày 28/6/2024 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc bổ sung dự toán thu ngân sách nhà nước năm 2023; phân bổ, sử dụng nguồn tăng thu, tiết kiệm chi thường xuyên của ngân sách trung ương năm 2023 là 16.655 tỷ đồng, bao gồm: tăng thu ngân sách trung ương là 12.974 tỷ đồng; tăng thu ngân sách địa phương là 3.681 tỷ đồng.
Phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước năm 2023, theo đó tổng số thu cân đối ngân sách nhà nước là 3.023.547 tỷ đồng, bao gồm cả số thu chuyển nguồn từ năm 2022 chuyển sang năm 2023, thu kết dư ngân sách địa phương năm 2022, thu từ quỹ dự trữ tài chính theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước. Tổng số chi cân đối ngân sách nhà nước là 3.176.154 tỷ đồng, bao gồm cả số chi chuyển nguồn từ năm 2023 sang năm 2024.
Bội chi ngân sách nhà nước là 291.564 tỷ đồng, bằng 2,83% GDP, không bao gồm kết dư ngân sách địa phương. Tổng mức vay của ngân sách nhà nước để bù đắp bội chi và trả nợ gốc là 482.625 tỷ đồng.
Đáng chú ý, kể từ ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân số 81/2025/QH15 được Quốc hội thông qua đến ngày có hiệu lực thi hành (ngày 1/7/2025), Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có trách nhiệm rà soát, chuẩn bị về tổ chức bộ máy, nhân sự, cơ sở vật chất và các điều kiện cần thiết khác để bảo đảm hoạt động của Tòa án nhân dân các cấp theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân.
Căn cứ quy định tại các điều 4, 40, 47 và 60 của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 81/2025/QH15 và yêu cầu của thực tiễn xét xử tại mỗi Tòa án, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Phê chuẩn đề nghị thành lập các Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao, cục, vụ và tương đương, cơ quan báo chí của Tòa án nhân dân tối cao; thành lập Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân khu vực; quy định về phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án nhân dân khu vực; quy định về phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ của một số Tòa án nhân dân cấp tỉnh đối với yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc; quy định về phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ của một số Tòa án nhân dân khu vực giải quyết vụ việc phá sản; vụ việc dân sự, kinh doanh, thương mại, vụ án hành chính về sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ; quyết định danh sách Ủy viên Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia...
Kết thúc hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao, Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân cấp huyện, Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện từ ngày 1/7/2025.
Nghị quyết này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2025./.