Cụ thể, Bộ Quốc phòng đề xuất sửa đổi, bổ sung Điều 38 Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam số 16/1999/QH10 như sau:
Theo Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam số 16/1999/QH10, hạn tuổi cao nhất sĩ quan dự bị được quy định như sau:
Cấp Uý: dự bị hạng một 46, dự bị hạng hai 48;
Thiếu tá: dự bị hạng một 49, dự bị hạng hai 52;
Trung tá: dự bị hạng một 52, dự bị hạng hai 55;
Thượng tá: dự bị hạng một 55, dự bị hạng hai 58;
Đại tá: dự bị hạng một 58, dự bị hạng hai 60;
Cấp Tướng: dự bị hạng một 63, dự bị hạng hai 65.
1. Hạn tuổi cao nhất của sĩ quan dự bị quy định như sau:
Cấp Úy: 53;
Thiếu tá: 55;
Trung tá: 57;
Thượng tá: 59;
Đại tá: 61;
Cấp Tướng: 63”.
2. Đối với Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự cấp xã hạn tuổi phục vụ cao nhất thực hiện theo quy định của Bộ luật Lao động.
Bộ Quốc phòng cũng đề xuất sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 41 Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam số 16/1999/QH10 được sửa đổi, bổ sung tại điểm a khoản 2 Điều 49 của Luật Dân quân tự vệ số 48/2019/QH14 như sau:
Học viên tốt nghiệp đào tạo sĩ quan dự bị, học viên tốt nghiệp đào tạo Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự cấp xã ngành quân sự cơ sở, căn cứ trình độ đã được đào tạo, kết quả học tập, rèn luyện được phong quân hàm sĩ quan dự bị.