Ngày 8/11, tại Nhà Quốc hội, dưới sự chủ trì và điều hành của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, Quốc hội tiếp tục chương trình chất vấn và trả lời chất vấn của kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá XV.
Theo chương trình, trước khi Thủ tướng Phạm Minh Chính báo cáo giải trình, trả lời chất vấn của các đại biểu, Quốc hội dành 1,5 giờ đầu phiên làm việc để Bộ trưởng các Bộ: Khoa học và Công nghệ, Giáo dục và Đào tạo, Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Y tế, Lao động-Thương binh và Xã hội, Thông tin và Truyền thông tiếp tục trả lời chất vấn.
Cổng Thông tin điện tử Chính phủ sẽ tiếp tục cập nhật thông tin về nội dung chất vấn và trả lời chất vấn trong chương trình phiên họp sáng 8/11.
Sáng 8/11, thay mặt Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã báo cáo, làm rõ thêm một số vấn đề được các vị đại biểu Quốc hội và đồng bào, cử tri quan tâm.
Đầu kỳ họp, Chính phủ đã báo cáo Quốc hội về đánh giá tình hình, kết quả phát triển KTXH 9 tháng và dự báo cả năm 2023. Trong tháng 10, tình hình KTXH tiếp tục xu hướng tích cực, tháng sau cao hơn tháng trước, đạt được những kết quả quan trọng trên các lĩnh vực.
Lạm phát tiếp tục được kiểm soát; chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân 10 tháng tăng 3,2%. Khu vực công nghiệp phục hồi tích cực; chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng 10 tăng 5,5% so với tháng trước và tăng 4,1% so với cùng kỳ.
Các khu vực nông nghiệp, dịch vụ tiếp tục tăng trưởng tốt; xuất khẩu nông sản 10 tháng đạt 43,08 tỷ USD; trong đó vừa bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia, vừa xuất khẩu 7,12 triệu tấn gạo, trị giá 3,97 tỷ USD. Kim ngạch xuất, nhập khẩu tháng 10 đạt 61,6 tỷ USD, tăng 4,1% so với tháng trước; tính chung 10 tháng đạt khoảng 558 tỷ USD, xuất siêu 24,61 tỷ USD.
Thu ngân sách nhà nước (NSNN) 10 tháng đạt 86,3% dự toán. Tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam đạt 25,76 tỷ USD, tăng 14,7% so với cùng kỳ; vốn FDI thực hiện đạt 18 tỷ USD, tăng 2,4%. Giải ngân vốn đầu tư công đạt 56,74% kế hoạch, cao hơn 5,5% so với cùng kỳ, số tuyệt đối cao hơn 104 nghìn tỷ đồng.
Tuy nhiên, tình hình KTXH vẫn còn những hạn chế, bất cập; sản xuất kinh doanh tiếp tục gặp khó khăn; thị trường lao động, việc làm trong một số lĩnh vực suy giảm; tỷ lệ thất nghiệp trong thanh niên còn cao; thiên tai, bão lũ, sạt lở đất tiếp tục ảnh hưởng lớn đến khu vực miền Trung,… đúng như các vị đại biểu Quốc hội đã nêu.
Trong thời gian còn lại của năm 2023, Chính phủ tiếp tục chỉ đạo thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp trên các lĩnh vực, vừa giải quyết những vấn đề trước mắt, vừa chuẩn bị cơ sở, tiền đề cho những năm tiếp theo, trong đó tập trung thúc đẩy các động lực tăng trưởng (đầu tư, tiêu dùng, xuất khẩu), các địa phương đầu tàu tăng trưởng; thực hiện các chính sách hỗ trợ tăng tổng cầu, nhất là các chính sách tài khóa và tiền tệ; tăng khả năng tiếp cận tín dụng, đất đai, mở rộng thị trường, đa dạng sản phẩm, chuỗi cung ứng; đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công; thu hút vốn đầu tư xã hội, đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài.
Thúc đẩy phát triển mạnh công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến, chế tạo; đẩy mạnh phát triển thị trường trong nước và thúc đẩy xuất khẩu, tận dụng tốt cơ hội thị trường vào dịp cuối năm, lễ, Tết; bảo đảm ổn định giá cả, thị trường, nhất là những mặt hàng thiết yếu.
Đồng thời theo dõi sát, nắm chắc diễn biến tình hình quốc tế, trong nước, phản ứng chính sách kịp thời, linh hoạt, hiệu quả với những vấn đề mới phát sinh; nỗ lực phấn đấu đạt mức cao nhất các mục tiêu, chỉ tiêu kế hoạch năm 2023, trong đó tăng trưởng GDP đạt trên 5%, tạo đà cho việc thực hiện kế hoạch năm 2024.
Đây là vấn đề rất quan trọng, góp phần khơi thông nguồn lực, hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn, thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, sinh kế cho người dân, bảo đảm đời sống cho người lao động, được Đảng, Nhà nước, Quốc hội và đồng bào, cử tri cả nước đặc biệt quan tâm.
Chính phủ tiếp tục chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương tập trung rà soát, phát hiện, xử lý kịp thời những bất cập, khó khăn, vướng mắc, cả về quy định pháp luật, cơ chế, chính sách và tổ chức thực hiện.
Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, đã tập trung triển khai nhiệm vụ này và cần phải đẩy mạnh hơn nữa trong thời gian tới.
Tiếp tục đề xuất các cấp có thẩm quyền, ban hành kịp thời các chính sách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, nhất là về tài khóa, tiền tệ, xử lý vướng mắc của các thị trường bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp, hỗ trợ người lao động, cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh…
Tuy nhiên, đúng như các vị đại biểu Quốc hội đã nêu, một số quy định pháp luật, cơ chế, chính sách không còn phù hợp, chậm được sửa đổi, bổ sung. Thủ tục hành chính đối với sản xuất kinh doanh, hoạt động của doanh nghiệp trên một số lĩnh vực còn phức tạp, rườm rà. Quy trình, thủ tục hành chính trong nội bộ của từng cơ quan và giữa các cơ quan có lúc, có nơi chưa đáp ứng yêu cầu. Việc phân cấp, phân quyền trong một số lĩnh vực còn vướng mắc về thể chế, nhất là đối với những vấn đề phát sinh mới...
Nguyên nhân chủ yếu là do tình hình biến động nhanh, dẫn đến một số quy định pháp luật, cơ chế, chính sách chưa kịp sửa đổi, bổ sung đáp ứng yêu cầu thực tiễn; trong khi quy trình ban hành, sửa đổi, bổ sung còn qua nhiều khâu, nhiều cấp.
Kỷ luật, kỷ cương hành chính trong một số cơ quan, đơn vị, địa phương còn chưa nghiêm, trong đó người đứng đầu có lúc, có nơi chưa thực sự phát huy hết tinh thần trách nhiệm; còn tình trạng một bộ phận cán bộ, công chức né tránh, đùn đẩy trách nhiệm, sợ sai, chưa thực sự vì lợi ích chung…
(1) Tiếp tục rà soát, giải quyết vướng mắc pháp lý, nhất là về định giá đất, nhà ở, đất đai, bất động sản, quy hoạch, đấu thầu, đầu tư, xây dựng…
(2) Rà soát, đơn giản hóa điều kiện, quy định kinh doanh, quy trình thủ tục về thẩm định, phê duyệt các dự án đầu tư, xây dựng; các thủ tục hành chính liên quan trực tiếp đến người dân, doanh nghiệp và đẩy mạnh thực hiện Đề án 06.
(3) Yêu cầu người đứng đầu các bộ, ngành, địa phương trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và chịu trách nhiệm về công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật, cải cách hành chính; động viên, khen thưởng và xử lý kỷ luật kịp thời, nghiêm minh theo quy định của Đảng, Nhà nước.
(4) Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với phân bổ nguồn lực, nâng cao năng lực cấp dưới và tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực, đề cao trách nhiệm người đứng đầu; phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của các cấp, các ngành, các địa phương.
(5) Tiếp tục hoàn thiện quy định để khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm vì lợi ích chung; đồng thời xử lý nghiêm các trường hợp né tránh, không phối hợp, đùn đẩy trách nhiệm, làm chậm, kém hiệu quả...
Thực hiện các nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã quyết liệt chỉ đạo triển khai các dự án giao thông trọng điểm, quan trọng quốc gia (36 dự án với 83 dự án thành phần).
Lãnh đạo Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương thường xuyên kiểm tra, trực tiếp chỉ đạo, đôn đốc, kịp thời tháo gỡ khó khăn, động viên, khích lệ các đơn vị thi công và người lao động "vượt nắng, thắng mưa", "xua tan dịch bệnh", làm việc "3 ca, 4 kíp", xuyên lễ, xuyên Tết, nỗ lực hết mình để hoàn thành, sớm đưa công trình vào sử dụng và đạt được những kết quả quan trọng, đáp ứng sự mong mỏi của người dân, doanh nghiệp; đồng thời qua đó tập trung chỉ đạo sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm để bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật.
Tháo gỡ những vấn đề bất cập, vướng mắc kéo dài để khởi công, triển khai các dự án giao thông trọng điểm, như Cảng hàng không quốc tế Long Thành, sân bay Điện Biên, Đường Vành đai 3 thành phố Hồ Chí Minh, Đường Vành đai 4 vùng Thủ đô Hà Nội và nhiều dự án đường bộ cao tốc khác.
Tuy nhiên, một số dự án còn chậm tiến độ, đội vốn, chia nhỏ gói thầu, chất lượng chưa đồng đều; việc triển khai gặp nhiều khó khăn, vướng mắc pháp lý, tổ chức thực hiện trong giải phóng mặt bằng, tái định cư, cung ứng nguyên vật liệu; một số đoạn, tuyến cao tốc chưa xây dựng đủ 4 làn xe, chưa có trạm dừng nghỉ, làn dừng khẩn cấp; hoàn trả đường dân sinh, hậu cần còn bất cập...
Thực trạng này có nhiều nguyên nhân, trong đó đại dịch COVID-19 đã ảnh hưởng đến quá trình triển khai một số dự án; việc thực hiện thủ tục đầu tư còn chậm; chưa có quy chuẩn cho đường cao tốc; việc triển khai, quản lý, thi công, tư vấn, giám sát tại một số dự án còn hạn chế, bất cập, gây khó khăn, phiền hà cho người dân và doanh nghiệp…
(1) Rà soát, sửa đổi, hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan, nhất là về trình tự thủ tục đầu tư, thủ tục vốn ODA, bảo đảm nhanh, kịp thời, hiệu quả và linh hoạt.
(2) Đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng, tái định cư; xử lý các khó khăn về đường gom, đường tránh, nút giao cho người dân...
(3) Tháo gỡ ngay khó khăn, vướng mắc về nguồn nguyên vật liệu, đặc biệt là ở vùng đồng bằng sông Cửu Long; đồng thời, kiểm soát chặt chẽ biến động giá nguyên, vật liệu.
(4) Sớm ban hành quy chuẩn đường cao tốc trong quý I/2024; rà soát, tính toán hợp lý, huy động nguồn lực đầu tư mở rộng 05 tuyến cao tốc phân kỳ đầu tư 2 làn xe và 07 tuyến chưa có làn dừng khẩn cấp.
(5) Nâng cao năng lực, chất lượng của chủ đầu tư, nhà đầu tư và tăng cường kiểm tra, giám sát... Phấn đấu đến cuối nhiệm kỳ hoàn thành mục tiêu ít nhất có 3.000 km đường bộ cao tốc theo Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng.
Chính phủ đã tập trung chỉ đạo từ sớm, từ xa về việc cung ứng đủ điện, xăng dầu cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng của nhân dân.
Về cơ bản, an ninh năng lượng được đảm bảo. Tuy nhiên trong năm nay đã xảy ra tình trạng thiếu điện cục bộ tại miền Bắc vào cuối tháng 5, đầu tháng 6 và năm ngoái thì thiếu xăng dầu, đúng như các vị đại biểu Quốc hội đã nêu.
Mặc dù tổng công suất nguồn đạt trên 70 nghìn MW; nhu cầu thực tế chỉ cần khoảng 52 nghìn MW; nhưng do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan đã dẫn đến tình trạng thiếu điện cục bộ khu vực miền Bắc.
Nhưng nguyên nhân chủ quan là chính, do nắm tình hình, xây dựng kế hoạch truyền tải, điều độ và khâu phân phối. Trong đó việc đầu tư phát triển mạng lưới truyền tải, phân phối điện chưa được quan tâm đúng mức trong một thời gian dài; công tác điều độ điện lực có những hạn chế, bất cập; phân bổ nguồn điện nền giữa các vùng miền chưa hợp lý…
(1) Khẩn trương ban hành Kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện VIII; rà soát, hoàn thiện thể chế cho phát triển công nghiệp điện tái tạo theo tinh thần Nghị quyết số 55 của Bộ Chính trị.
(2) Nâng cao hiệu quả các khâu truyền tải, điều độ và phân phối, trong đó đẩy nhanh tiến độ xây dựng đường dây 500 kV từ miền Trung ra miền Bắc.
(3) Sớm hoàn thiện thị trường mua bán điện cạnh tranh, cơ chế mua bán điện trực tiếp, cơ chế khuyến khích phát triển nguồn điện áp mái tự sản, tự tiêu.
(4) Triệt để tiết kiệm điện trong sản xuất kinh doanh và tiêu dùng.
(5) Bảo đảm đủ xăng dầu cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng của người dân.
(6) Tăng cường hợp tác quốc tế; đẩy mạnh chuyển đổi năng lượng xanh, sạch, công bằng gắn với cam kết quốc tế về bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu.
Đây là yếu tố có ý nghĩa quyết định đến phát triển nhanh và bền vững, được Đảng, Nhà nước xác định là một trong ba khâu đột phá chiến lược, là quốc sách hàng đầu và đã đạt được những kết quả tích cực.
Tuy nhiên vẫn còn những hạn chế, bất cập, như các vị đại biểu Quốc hội băn khoăn, trăn trở.
Trong đó cơ cấu, trình độ nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng yêu cầu, đặc biệt là đối với các ngành, lĩnh vực mới; thị trường khoa học công nghệ (KHCN) còn bất cập; chưa có nhiều sản phẩm thành công; các hoạt động đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp chưa nhiều…
Nguyên nhân chủ yếu là do một số quy định pháp luật, cơ chế, chính sách liên quan có nội dung còn chưa phù hợp với yêu cầu thực tiễn; đầu tư từ NSNN, đầu tư của doanh nghiệp cho đào tạo nhân lực chất lượng cao và KHCN còn dàn trải, kém hiệu quả; chưa có cơ chế, chính sách đủ mạnh khuyến khích phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp, nhất là về thuế, tín dụng, nhân lực, hạ tầng, quy trình các khâu thanh toán; công tác quản lý nhà nước còn bất cập…
(1) Rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo đột phá phát triển nhân lực chất lượng cao, thu hút, trọng dụng nhân tài, nhất là đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học, lao động trình độ cao cả trong và ngoài nước.
(2) Ưu tiên bố trí nguồn lực đào tạo nhân lực chất lượng cao cho các ngành, lĩnh vực mới nổi (như chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo, chíp bán dẫn, chuyển đổi năng lượng sạch, hydrogen...).
(3) Thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, dạy nghề đáp ứng yêu cầu thị trường lao động và KHCN.
(4) Xây dựng cơ chế đặc thù chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học; nâng cao hiệu quả hoạt động của các quỹ phát triển KHCN.
(5) Phát triển mạnh thị trường KHCN hiệu quả, hội nhập, bền vững; khẩn trương hình thành các sàn giao dịch công nghệ; có chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào KHCN.
(6) Đẩy mạnh phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; phát huy hiệu quả Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia (NIC)…
Năm 2022, tại một số cơ sở y tế công lập xuất hiện tình trạng thiếu thuốc, trang thiết bị, vật tư y tế; vào bệnh viện phải mua thuốc ngoài, thanh toán bảo hiểm y tế khó khăn, ảnh hưởng đến công tác khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe của nhân dân; tình trạng quá tải bệnh viện chưa được khắc phục hiệu quả.
Nguyên nhân chủ yếu là do đại dịch COVID-19 dẫn đến đứt gãy các chuỗi cung ứng; các bất cập trong quy định về đăng ký, đấu thầu, mua sắm; còn có tâm lý e ngại, sợ sai tại một số cơ quan, cơ sở y tế; đầu tư phát triển cơ sở khám chữa bệnh còn hạn hẹp...
Với tinh thần bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của nhân dân là trên hết, trước hết, Chính phủ đã trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung các luật về đấu thầu, giá, khám bệnh, chữa bệnh và các nghị quyết cho phép gia hạn giấy đăng ký lưu hành đối với thuốc hết hiệu lực lưu hành; ban hành Nghị quyết về bảo đảm thuốc, trang thiết bị y tế; chỉ đạo tháo gỡ vướng mắc trong hoạt động đấu thầu, mua sắm thuốc và thanh toán bảo hiểm y tế.
Đến nay, tình trạng thiếu thuốc, trang thiết bị, vật tư y tế từng bước được xử lý hiệu quả, trong đó đã bảo đảm đủ các loại thuốc thiết yếu, phổ biến.
Đồng thời, Thủ tướng Chính phủ đã thành lập Tổ công tác và yêu cầu khẩn trương xây dựng, triển khai phương án giải quyết những vấn đề tồn đọng của 2 dự án Bệnh viện Việt Đức và Bệnh viện Bạch Mai cơ sở 2.
(1) Trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung các Luật Dược, Luật Bảo hiểm y tế và xây dựng, trình Quốc hội sớm ban hành Luật Trang thiết bị y tế để giải quyết các vấn đề thuốc, trang thiết bị, vật tư y tế và bảo hiểm y tế một cách căn cơ, có hệ thống, đảm bảo hiệu quả.
(2) Yêu cầu các bộ, ngành, địa phương theo thẩm quyền tiếp tục khẩn trương rà soát, sửa đổi các quy định pháp luật để tháo gỡ vướng mắc, bất cập trong mua sắm, đấu thầu, đàm phán giá thuốc, đảm bảo công khai, minh bạch.
(3) Thúc đẩy phát triển mạnh ngành công nghiệp dược, trang thiết bị y tế về mặt lâu dài.
(4) Tập trung xây dựng cơ sở y tế mới góp phần giảm quá tải bệnh viện, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho người dân.
(5) Chú trọng đào tạo, phát triển nhân lực ngành y tế, có chính sách đãi ngộ, trọng dụng, tôn vinh và phát huy vai trò của đội ngũ y bác sĩ, nhân viên y tế…
Như Chính phủ đã báo cáo Quốc hội, dự kiến có 05 chỉ tiêu khó đạt kế hoạch đề ra, gồm: (1) Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP); (2) GDP bình quân đầu người; (3) Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP; (4) Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội; (5) Tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tốc độ tăng trưởng GDP dự kiến không đạt kế hoạch đề ra là do tác động, ảnh hưởng nặng nề từ bên ngoài và những hạn chế, bất cập từ bên trong, sản xuất kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn, trong khi nước ta là nước đang phát triển, nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi, xuất phát điểm thấp, quy mô còn khiêm tốn, độ mở lớn, sức chống chịu và khả năng cạnh tranh còn hạn chế.
Tốc độ tăng trưởng GDP không đạt mục tiêu là một yếu tố quan trọng dẫn đến các chỉ tiêu khác như GDP bình quân đầu người, tốc độ tăng năng suất lao động xã hội cũng không đạt được mục tiêu đề ra.
Lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo chịu ảnh hưởng nặng nề từ thị trường quốc tế, tính chung 10 tháng chỉ đạt 0,5% tăng trưởng, dẫn đến chỉ tiêu tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP thấp hơn mục tiêu đề ra.
Bên cạnh đó, áp lực cắt giảm việc làm do sản xuất kinh doanh khó khăn tạo ra sự chuyển dịch lao động sang khu vực nông nghiệp, dẫn đến tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động có việc làm khoảng 26,9%, khó đạt mục tiêu đặt ra (26,2%).
(1) Tiếp tục ưu tiên thúc đẩy các động lực tăng trưởng (đầu tư, tiêu dùng, xuất khẩu); tập trung phát triển mạnh thị trường trong nước; mở rộng xuất khẩu.
(2) Đẩy mạnh hơn nữa giải ngân vốn đầu tư công, đồng thời tăng cường thu hút các nguồn vốn đầu tư xã hội, đầu tư tư nhân, đầu tư nước ngoài.
(3) Tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, nhất là mở rộng thị trường, kiên quyết cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, quy định kinh doanh.
(4) Đẩy mạnh phát triển sản xuất công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến, chế tạo, các ngành, lĩnh vực mới nổi và công nghiệp hỗ trợ, nhất là việc tìm kiếm thị trường cho các sản phẩm này.
(5) Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu nội ngành nông nghiệp.
(6) Tập trung đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, thúc đẩy liên kết vùng, phát huy vai trò của 6 vùng KTXH, tạo các động lực mới cho phát triển nhanh, bền vững.
Năng suất lao động xã hội (được tính bằng GDP/ tổng số lao động làm việc bình quân trong nền kinh tế) là một trong những thước đo quan trọng đánh giá trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia.
Trong nhiều năm qua, năng suất lao động xã hội của Việt Nam tăng trưởng liên tục và cao hơn so với bình quân của khu vực và thế giới. Tuy nhiên, chỉ tiêu này vẫn chưa đạt mục tiêu Quốc hội giao.
Thực trạng này có nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân trực tiếp là do tăng trưởng GDP không đạt mục tiêu đề ra.
Đồng thời, do đại dịch COVID-19, nhu cầu quốc tế suy giảm dẫn đến sự chuyển dịch lao động từ các khu vực công nghiệp, dịch vụ có năng suất lao động cao hơn sang khu vực nông nghiệp, khu vực phi chính thức có năng suất lao động thấp hơn và tình trạng làm việc tạm thời, lao động bán thời gian tăng lên.
Trong khi đó, chất lượng nguồn nhân lực và trình độ KHCN còn hạn chế; năng lực quản trị doanh nghiệp, quản lý lực lượng lao động còn bất cập và một số nguyên nhân khác cũng đã ảnh hưởng đến tốc độ tăng năng suất lao động xã hội trong thời gian qua.
(1) Thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhất là khu vực công nghiệp gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động, đặc biệt là thu hút lao động nông nhàn, phi chính thức sang các khu vực công nghiệp và dịch vụ.
(2) Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng dựa vào KHCN, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao; phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thương mại điện tử và các ngành, lĩnh vực mới nổi; sớm hoàn thiện, ban hành Chương trình quốc gia về tăng năng suất lao động.
(3) Tạo bước chuyển biến thực chất trong đào tạo đại học và đào tạo nghề; nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng nguồn nhân lực; hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động, phát triển các sàn giao dịch việc làm, kết nối cung cầu lao động bền vững, lành mạnh.
(4) Tập trung đầu tư hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, nhất là hệ thống hạ tầng giao thông, hạ tầng số, hạ tầng đô thị, hạ tầng xã hội về giáo dục và y tế...
(5) Phát triển mạnh thị trường KHCN, phát huy hiệu quả các quỹ về KHCN; thúc đẩy đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp và các trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo quốc gia.
(6) Tăng cường hợp tác quốc tế, nhất là về đào tạo nguồn nhân lực; hợp tác chặt chẽ với các quốc gia, tổ chức quốc tế, doanh nghiệp để tranh thủ các nguồn lực về vốn, công nghệ, quản trị quốc gia; qua đó góp phần thúc đẩy nâng cao năng suất lao động xã hội, khả năng cạnh tranh và tiềm lực kinh tế của đất nước.
Thay mặt Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính trân trọng báo cáo giải trình về một số vấn đề được nhiều vị đại biểu Quốc hội và đồng bào, cử tri cả nước quan tâm. Trong đó, có những vấn đề đã được tập trung chỉ đạo xử lý và có kết quả cụ thể, nhưng cũng có những vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu, có giải pháp phù hợp, hiệu quả để tập trung khắc phục trong thời gian tới.
"Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ rất mong tiếp tục nhận được sự quan tâm, đóng góp ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội và đồng bào, cử tri cả nước", Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ.
Đại biểu Nguyễn Ngọc Sơn (Hải Dương) đặt câu hỏi về định hướng, các nhiệm vụ, giải pháp phát triển ngành du lịch bền vững, thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, khai thác hết tiềm năng, lợi thế trong lĩnh vực này.
Trả lời câu hỏi này, Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết: Tài nguyên du lịch của nước ta rất phong phú với truyền thống lịch sử - văn hóa, thiên nhiên, cảnh quan, môi trường, đặc biệt là có bờ biển dài trên 3.000 km, người dân thân thiện, mến khách, cần cù, yêu lao động.
Đó là những lợi thế của ngành du lịch và Đảng, Nhà nước đã có các chủ trương, chính sách, nhưng thực tế, ngành du lịch chưa phát triển tương xứng với tiềm năng, thế mạnh và mong đợi của đồng bào, cử tri.
Các nguyên nhân như đại biểu đã nêu, liên quan tới chính sách, thể chế, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, nguồn nhân lực, quy hoạch phát triển ngành du lịch là ngành mới, nhưng có tính hội nhập cao. Các khó khăn, vướng mắc do nguyên nhân chủ quan và khách quan, nhưng chủ quan là chính.
Về giải pháp, Thủ tướng nêu rõ, cần tiếp tục triển khai hiệu quả các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển ngành du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn, thể chế hóa, cụ thể hóa chủ trương của Đảng bằng luật của Quốc hội, nghị định của Chính phủ, thông tư của các bộ; lãnh đạo, chỉ đạo tập trung để xác định rõ trọng tâm phát triển; bố trí nguồn lực cho hạ tầng du lịch; đào tạo nguồn nhân lực phù hợp, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế; đây là ngành kinh tế tổng hợp nên cần sự phối hợp chặt chẽ của các bộ ngành, địa phương.
Đại biểu Nguyễn Lâm Thành (Thái Nguyên) cho biết, cử tri và dư luận xã hội rất vui mừng về những chủ trương, giải pháp ngay từ đầu nhiệm kỳ của Chính phủ về đẩy mạnh thực hiện phân cấp, phân quyền gắn với phân bổ nguồn lực, nâng cao năng lực bộ máy, tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực. Tuy nhiên, thực tiễn một số lĩnh vực chưa được như kỳ vọng. Đại biểu đề nghị Thủ tướng cho biết các nguyên nhân, định hướng và giải pháp thời gian tới để thực hiện chủ trương lớn nói trên.
Trả lời câu hỏi này, Thủ tướng cho biết, Đảng đã có chủ trương rất rõ về tăng cường phân cấp, phân quyền để phân định rõ hơn trách nhiệm các cấp, phát huy tính năng động, chủ động, sáng tạo của các cấp (gồm chính quyền Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã và các các cơ quan khác). Việc phân cấp, phân quyền là rất quan trọng.
Tuy nhiên, việc phân cấp, phân quyền và tổ chức thực thi chưa đáp ứng yêu cầu, mong muốn của cử tri và nhân dân. Nguyên nhân là chưa thực hiện triệt để các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Một số cơ quan Trung ương, đơn vị chưa thực sự muốn phân cấp, phân quyền trong quá trình xây dựng quy định của pháp luật. Năng lực cán bộ còn có những hạn chế, nhất là trước những việc lớn, việc mới. Việc đáp ứng yêu cầu của người dân liên quan nhiều cấp, nhiều ngành.
Giải pháp là phải tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo để phân cấp phân quyền đi đôi với phân bổ nguồn lực phù hợp, nâng cao năng lực cấp dưới, tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực; tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế để các cấp phải tiếp tục mạnh dạn thực hiện phân cấp, phân quyền, tránh né tránh, đùn đẩy.
Đại biểu Dương Khắc Mai (Đắk Nông) đánh giá cao công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế thời gian qua, đạt những kết quả nổi bật, góp phần quan trọng thu hút nguồn lực, thúc đẩy thương mại, đầu tư và nâng cao vị thế, uy tín đất nước. Đại biểu đề nghị Thủ tướng cho biết định hướng chiến lược, nhiệm vụ, giải pháp năm 2024 phù hợp với tình hình quốc tế đã và đang diễn biến phức tạp, bất thường, bất định.
Đại biểu cũng chất vấn về việc di dời đường dây 500 kV ra ngoài thành phố Gia Nghĩa (Đắk Nông).
Trả lời đại biểu, Thủ tướng cho biết, chúng ta đang thực hiện đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Triển khai đường lối này, chúng ta xác định các thứ tự ưu tiên, gồm: Các nước láng giềng, các nước bạn bè truyền thống, các nước lớn.
Công tác đối ngoại, hội nhập đã đạt những kết quả rất quan trọng và là điểm sáng như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu tại Hội nghị Trung ương 8, từ đó tạo môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển, thu hút nguồn lực phát triển (về vốn, công nghệ, quản trị, đào tạo nhân lực); góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với tích cực, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả.
Gần đây, Việt Nam đã và đang tiếp tục nâng cấp quan hệ với các nước, trong đó đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược và đối tác chiến lược toàn diện với 5 nước ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc và nhiều nước G20.
Tiếp tục phát huy thành quả đối ngoại, hội nhập của năm 2023, chúng ta đang xây dựng chương trình đối ngoại, hội nhập quốc tế năm 2024 và tiếp tục triển khai Chỉ thị số 15-CT/TW ngày 10/8/2022 của Ban Bí thư về công tác ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển đất nước đến năm 2030 và tiếp tục huy động sức mạnh, nguồn lực của kiều bào ở nước ngoài.
Liên quan tới việc di dời dường dây 500 kV, Thủ tướng cho rằng đây là việc cụ thể, trên nguyên tắc chung là đã vướng mắc thì phải tháo gỡ, Thủ tướng giao Bộ trưởng Công Thương, EVN và các cơ quan liên quan khẩn trương nghiên cứu, rà soát, đánh giá chính xác, cụ thể, nếu cần phải di dời thì tiến hành di dời.
Tiếp đó, Thủ tướng trả lời 2 đại biểu đã đặt câu hỏi với Thủ tướng tại các phiên chất vấn trước.
Trong đó, đại biểu Nguyễn Phương Thủy (Hà Nội) cho rằng trong nhiệm kỳ này, Chính phủ trình thí điểm nhiều cơ chế đặc thù và điều này có thể dẫn tới hệ thống pháp luật thiếu thống nhất, đồng bộ và có thể tạo điều kiện cho cơ chế xin cho… Đại biểu đặt câu hỏi, quan điểm của Thủ tướng về vấn đề này như thế nào.
Đại biểu Văn Thị Bạch Tuyết (TPHCM) đặt 2 câu hỏi về giải pháp phát triển kinh tế số, xã hội số, trong đó giải pháp nào đột phá và các giải pháp để bảo đảm đồng bộ trong triển khai cải cách tiền lương.
Về câu hỏi của đại biểu Nguyễn Phương Thủy, Thủ tướng cho biết, vừa qua chúng ta trình cơ chế đặc thù cho một số địa phương, một số ngành. Đây là yêu cầu khách quan của thực tiễn trong bối cảnh nước ta là nước đang phát triển, nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi, xuất phát điểm thấp, quy mô còn khiêm tốn, độ mở lớn, sức chống chịu và khả năng cạnh tranh còn hạn chế, tình hình thế giới và thực tiễn trong nước thay đổi rất nhanh, có văn bản, quy định theo kịp tình hình, sạt thực tế, có văn bản, quy định thì chưa, trong khi quy trình xây dựng quy định qua nhiều khâu, mất nhiều thời gian và công sức.
Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long đã trả lời về vấn đề này, bổ sung thêm một số nội dung, Thủ tướng khẳng định việc này có cơ sở chính trị, cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn.
Về cơ sở chính trị, Nghị quyết 18 của Trung ương khóa XII và Nghị quyết 19 của Trung ương khóa XIII đều có tinh thần: Những vấn đề đã "chín", đã rõ, được thực tiễn chứng minh là đúng, thực hiện có hiệu quả, được đa số đồng tình thì tiếp tục thực hiện và có thể luật hóa; những vấn đề chưa rõ, chưa chín, có quy định luật pháp nhưng không còn phù hợp hoặc chưa có quy định thì mạnh dạn thí điểm, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, mở rộng dần, không cầu toàn, không nóng vội.
Về cơ sở pháp lý, Luật Ban hành quy phạm pháp luật cho phép việc này tại điểm a, khoản 2 điều 15.
Về cơ sở thực tiễn, vừa qua chúng ta đã ban hành một số nghị quyết, như Nghị quyết 30 của Quốc hội được ban hành rất kịp thời hay một số nghị quyết thí điểm cho một số địa phương và đang thực hiện có hiệu quả.
Tuy nhiên, Thủ tướng cho rằng cần điều chỉnh cho phù hợp thực tế; sắp tới sẽ tiếp tục nghiên cứu, đánh giá tác động kỹ lưỡng hơn, tiếp tục lắng nghe ý kiến các nhà khoa học, các cơ quan liên quan, các đại biểu Quốc hội và người dân để điều chỉnh phù hợp, tiến tới hệ thống pháp luật phải bao trùm, xuyên suốt và thống nhất.
Về câu hỏi của đại biểu Văn Thị Bạch Tuyết liên quan tới cải cách tiền lương, Thủ tướng cho biết đây là vấn đề được đại biểu Quốc hội và cử tri quan tâm.
Theo Thủ tướng, tiền lương là nguồn tái tạo sức lao động và cũng là động lực cho cán bộ công chức tham gia cống hiến, đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Trung ương khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW về cải cách tiền lương, nhưng chưa thực hiện được do nguồn lực khó khăn, đại dịch COVID-19, các tác động từ tình hình trong và ngoài nước.
Đến nay, chúng ta đã cố gắng tăng thu, giảm chi, tiết kiệm được khoảng 560 nghìn tỷ đồng để cải cách tiền lương trong 3 năm 2024-2026.
Thời gian tới, sẽ tiếp tục hoàn thiện vị trí làm, tinh giản biên chế, tinh gọn bộ máy và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy; tiết kiệm chi để bảo đảm chi lương cho cán bộ, công chức.
Cùng với đó, chỉ đạo Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội cùng các cơ quan tiếp tục nghiên cứu, xây dựng chính sách, cải cách tiền lương khu vực ngoài nhà nước theo hướng tiệm cận nhau giữa khu vực nhà nước và ngoài nhà nước. Đồng thời, phải tiến hành công tác tuyên truyền và nhiều nhiệm vụ khác như Bộ trưởng Bộ Nội vụ đã trả lời.
Về chuyển đổ số, Thủ tướng cho biết đây là xu thế, phong trào không thể không tham gia. Hiện kinh tế số của Việt Nam tăng trưởng trung bình khoảng 20% mỗi năm, kinh tế số năm 2023 chiếm khoảng 17% nền kinh tế, 2024 dự kiến đạt 20%, về đích trước 1 năm so với mục tiêu đã đề ra.
Chính phủ đã ban hành chương trình chuyển đổi số quốc gia, chiến lược về kinh tế số, xã hội số, công dân số, thành lập Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số do Thủ tướng làm Chủ tịch; hoàn thiện thể chế, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, bố trí nguồn lực phát triển hạ tầng tầng số và việc đặc biệt quan trọng là phát triển nhân lực chuyển đổi số. Năm 2023 được xác định là năm dữ liệu số quốc gia.
Thủ tướng nhấn mạnh một số điểm cần chú ý gồm: Xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin, đặc biệt quan tâm đào tạo nhân lực; chuyển đổi số trong toàn dân để người dân tham gia và thụ hưởng với vai trò là trung tâm, là chủ thể; tập trung chuyển đổi số trong các ngành mới nổi như kinh tế xanh, tuần hoàn…. Liên quan tới an sinh xã hội, phải xóa 200 điểm lõm sóng viễn thông trên cả nước.
Tiếp đó, đại biểu Cầm Thị Mẫn (Thanh Hóa) đặt câu hỏi về các nhiệm vụ, giải pháp trước tình hình cháy nổ thời gian qua.
Trả lời câu hỏi này, Thủ tướng cho biết vừa qua, chúng ta đã chứng kiến một số vụ cháy nổ rất thương tâm. Nhận diện tình trạng này, Chính phủ, các bộ ngành liên quan đã có hành động để góp phần phòng chống, ngăn chặn. Đầu năm nay, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 01 về tăng cường công tác phòng cháy, chữa cháy trong tình hình mới.
Nhiệm vụ thời gian tới, Thủ tướng nêu rõ, việc làm tốt công tác tuyên truyền về phòng cháy chữa cháy, cứu hộ cứu nạn, nâng cao ý thức, hiểu biết, kỹ năng của người dân là rất quan trọng; tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy; tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của các cấp chính quyền; tăng cường đầu tư cho cơ sở vật chất trong lĩnh vực này.
Cùng với đó, công tác quy hoạch, xây dựng tiêu chuẩn, tiêu chí đang được chỉ đạo rất quyết liệt, gồm cả đường giao thông, nguồn nước chữa cháy…; nếu không thì khi xảy ra cháy nổ, phương tiện chữa cháy không vào được đến nơi.
Thủ tướng cũng nhấn mạnh các giải pháp liên quan đến sự tham gia của người dân, tổ dân phố, sự vào cuộc của các tổ chức chính trị, xã hội và yêu cầu hiện đại hóa lực lượng phòng cháy chữa cháy.
Đại biểu Lý Tiết Hạnh (Bình Định) đặt vấn đề, Nghị quyết 27-NQ/TW năm 2008 về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã yêu cầu Chính phủ thể chế hóa, nhưng sau 15 năm vẫn chưa triển khai. Đại biểu đặt câu hỏi khi nào Chính phủ sẽ triển khai nhiệm vụ này theo Nghị quyết 27?
Về phân cấp, phân quyền, đại biểu cho biết Nghị định 42 năm 2017 cho phép ủy quyền cho địa phương để thẩm định dự án, thiết kế, dự toán xây dựng với một số dự án nhóm A, nhưng theo Nghị quyết 15 năm 2021 thì không còn việc ủy quyền nữa, trong khi ở nhiều dự án du lịch, công trình thấp tầng, việc xây dựng không đòi hỏi kỹ thuật cao thì địa phương có đủ năng lực thẩm định. Đại biểu đặt câu hỏi việc ủy quyền với các dự án này có phù hợp không và rà soát để phân cấp, phân quyền mạnh hơn nữa.
Trả lời đại biểu về câu hỏi liên quan tới Nghị quyết 27, Thủ tướng nêu rõ: Chúng tôi nhận khuyết điểm về việc này, phải kiểm điểm, xử lý trách nhiệm, Thủ tướng, các Phó Thủ tướng phải vào cuộc, chỉ đạo, cùng các bộ tập trung hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Về quản lý các dự án, Thủ tướng cho rằng cần phải rà soát, phân loại các dự án để phân cấp, ủy quyền cho phù hợp thực tiễn, nếu có vướng mắc pháp lý thì tháo gỡ. Đồng thời, Thủ tướng nhấn mạnh, phân cấp, phân quyền không có nghĩa là giao khoán mà các bộ ngành phải tăng cường phối hợp, đồng hành, kiểm tra, đôn đốc và hỗ trợ khi địa phương gặp khó khăn.
Đại biểu Phạm Thị Hồng Yến (Bình Thuận) đặt câu hỏi về giải pháp đối với thực trạng tỉ lệ lao động có việc làm phi chính thức còn cao?
Về nội dung này, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung và một số bộ trưởng đã trả lời. Bổ sung thêm, Thủ tướng nhắc lại, Việt Nam là nước ta là nước đang phát triển, nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi, xuất phát điểm thấp, quy mô còn khiêm tốn, độ mở lớn, sức chống chịu và khả năng cạnh tranh còn hạn chế.
Ngoài ra, vừa qua, do đại dịch COVID-19, nhu cầu quốc tế suy giảm dẫn đến sự chuyển dịch lao động từ các khu vực công nghiệp, dịch vụ có năng suất lao động cao hơn sang khu vực nông nghiệp, khu vực phi chính thức có năng suất lao động thấp hơn và tình trạng làm việc tạm thời, lao động bán thời gian tăng lên. Đây là việc điều tiết để người lao động tìm sinh kế phù hợp tình hình, nhưng về mặt quản lý nhà nước cũng rất đáng suy nghĩ.
Giải pháp thời gian tới, cần tiếp tục thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tạo việc làm, sinh kế cho người dân, nhất là phát triển khu vực công nghiệp, tái cơ cấu ngành nông nghiệp, nâng cao năng suất lao động... Đồng thời, phải làm tốt công tác an sinh xã hội, hỗ trợ những người gặp khó khăn.
Thủ tướng khẳng định đây là vấn đề quan trọng và Chính phủ đang tiếp tục cụ thể hóa, triển khai chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Đại biểu Mai Thị Phương Hoa (đoàn Nam Định) cho rằng ngay từ ngày đầu nhận nhiệm vụ, Chính phủ, Thủ tướng đã xác định cải cách thể chế là nhiệm vụ trọng tâm và đạt nhiều kết quả quan trọng. Đại biểu đặt câu hỏi về giải pháp trọng tâm, quan trọng nhất và những vấn đề ưu tiên nhất thời gian tới.
Về nội dung này, theo Thủ tướng, Đảng, Nhà nước đã xác định 3 đột phá chiến lược về thể chế, hạ tầng, nhân lực và việc lựa chọn các ưu tiên cần hài hòa, hợp lý, phù hợp từng giai đoạn theo chủ trương của Đảng.
Đại biểu Trần Thị Kim Nhung (đoàn Quảng Ninh) tranh luận liên quan tới việc đẩy mạnh cắt giảm thủ tục hành chính gây phiền hà, tăng chi phí tuân thủ cho người dân và doanh nghiệp.
Theo Thủ tướng, thủ tục hành chính rườm rà là một nguyên nhân gây tăng chi phí tuân chủ cho doanh nghiệp, cùng với đó là thái độ của một bộ phận cán bộ, công chức trong thực thi công vụ còn đùn đẩy, né tránh trách nhiệm.
Do đó, cùng với tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức, cần bảo đảm lợi ích tinh thần và vật chất phù hợp cho cán bộ, công chức để làm tốt hơn chức trách, nhiệm vụ được giao.
Thủ tướng yêu cầu các bộ ngành tiếp tục rà soát lại các thủ tục để cắt giảm, đơn giản hóa, đề nghị các bộ trưởng, trưởng ngành, chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố tiếp tục vào cuộc, đặc biệt là lãnh đạo các cấp ủy huy động hệ thống chính trị vào cuộc để thúc đẩy, giám sát và động viên, xác định nhiệm vụ cơ bản cho cơ quan, đơn vị, địa phương mình.
Theo Thủ tướng, căn cơ vẫn là các giải pháp liên quan tới tăng cường ý thức, trách nhiệm, năng lực cán bộ và chế tài xử lý các vi phạm.
Chúng ta đã có các chủ trương, đường lối của Đảng, cần cụ thể hóa, thể chế hóa và tổ chức thực hiện tốt, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu và các cán bộ, công chức, thực hiện nhiệm vụ theo chủ trương của Đảng và quy định của pháp luật.
Trước đó, ngày 06/11/2023, Quốc hội dành cả ngày để tiến hành chất vấn và trả lời chất vấn về việc thực hiện một số nghị quyết của Quốc hội khóa XIV về giám sát chuyên đề, chất vấn và nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề, chất vấn từ đầu nhiệm kỳ khóa XV đến hết Kỳ họp thứ 4.
Từ 8h00 đến 9h20: Quốc hội họp phiên toàn thể tại hội trường, nghe Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ phát biểu khai mạc phiên chất vấn và trả lời chất vấn. Chủ tịch Quốc hội nêu rõ, đây là lần đầu trong nhiệm kỳ khóa XV và là lần thứ tư kể từ khi Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 có hiệu lực, Quốc hội tiến hành chất vấn các thành viên Chính phủ, Trưởng ngành về việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội khóa XIV và từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV đến hết Kỳ họp thứ 4 về giám sát chuyên đề, về chất vấn đối với các lĩnh vực.
Phạm vi nội dung chất vấn rất rộng, liên quan đến 21 lĩnh vực, gồm những vấn đề lớn, quan trọng, phản ánh mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, được Nhân dân và cử tri hết sức quan tâm. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác chất vấn, vừa bảo đảm tính toàn diện, vừa có trọng tâm, trọng điểm, thuận lợi cho cả đại biểu Quốc hội và người trả lời chất vấn, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã sắp xếp nội dung chất vấn thành 04 nhóm lĩnh vực, cụ thể là:
Nhóm lĩnh vực kinh tế tổng hợp: gồm các vấn đề liên quan đến lĩnh vực kế hoạch và đầu tư, tài chính, ngân hàng;
Nhóm lĩnh vực kinh tế ngành: gồm các vấn đề liên quan đến lĩnh vực công thương, nông nghiệp và phát triển nông thôn, giao thông vận tải, xây dựng, tài nguyên và môi trường;
Nhóm lĩnh vực nội chính, tư pháp: gồm các vấn đề liên quan đến lĩnh vực tư pháp; nội vụ; an ninh, trật tự, an toàn xã hội; thanh tra; tòa án; kiểm sát; kiểm toán;
Nhóm lĩnh vực văn hóa, xã hội: gồm các vấn đề liên quan đến lĩnh vực khoa học và công nghệ; giáo dục và đào tạo; văn hóa, thể thao và du lịch; y tế; lao động, thương binh và xã hội; thông tin và truyền thông.
Sau phát biểu khai mạc của Chủ tịch Quốc hội, Quốc hội nghe: Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Báo cáo về việc thực hiện một số nghị quyết của Quốc hội khóa XIV về giám sát chuyên đề, chất vấn và nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề, chất vấn từ đầu nhiệm kỳ khóa XV đến hết Kỳ họp thứ 4;
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Nguyễn Hòa Bình trình bày Báo cáo về việc thực hiện một số nghị quyết của Quốc hội khóa XIV về giám sát chuyên đề, chất vấn và nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề, chất vấn từ đầu nhiệm kỳ khóa XV đến hết Kỳ họp thứ 4;
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao Lê Minh Trí trình bày Báo cáo về việc thực hiện một số nghị quyết của Quốc hội khóa XIV về giám sát chuyên đề, chất vấn và nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề, chất vấn từ đầu nhiệm kỳ khóa XV đến hết Kỳ họp thứ 4;
Tổng Kiểm toán nhà nước Ngô Văn Tuấn trình bày Báo cáo về việc thực hiện một số nghị quyết của Quốc hội khóa XIV về giám sát chuyên đề, chất vấn và nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề, chất vấn từ đầu nhiệm kỳ khóa XV đến hết Kỳ họp thứ 4;
Tổng Thư ký Quốc hội - Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Bùi Văn Cường trình bày Báo cáo tổng hợp nội dung thẩm tra về việc thực hiện một số nghị quyết của Quốc hội khóa XIV về giám sát chuyên đề, chất vấn và nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề, chất vấn từ đầu nhiệm kỳ khóa XV đến hết Kỳ họp thứ 4.
Từ 09h40 đến 11h30 và từ 14h00 đến 14h40: Quốc hội tiến hành chất vấn về việc thực hiện một số nghị quyết của Quốc hội khóa XIV và từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV đến hết Kỳ họp thứ 4 về giám sát chuyên đề, chất vấn đối với các lĩnh vực: kế hoạch và đầu tư; tài chính; ngân hàng.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng; Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc; Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Thị Hồng; Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh; Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái đã tham gia trả lời chất vấn. Tại phiên chất vấn, đã có 22 đại biểu đặt câu hỏi chất vấn và 07 đại biểu tranh luận, tập trung vào các nội dung sau:
Về lĩnh vực kế hoạch và đầu tư: về quản lý, sử dụng vốn ODA; nguồn vốn ngân sách nhà nước thường xuyên và chi đầu tư; vấn đề tiết kiệm trong đầu tư công; tháo gỡ khó khăn trong thực hiện Luật Đầu tư công; vướng mắc trong công tác quy hoạch; việc khai thác, sử dụng đất hiếm; cơ chế đặc thù trong hỗ trợ một số đối tượng chính sách trong đầu tư công.
Về lĩnh vực tài chính: nguyên nhân, trách nhiệm và giải pháp khắc phục tình trạng chậm cũng như nâng cao hiệu quả thực thi nhiệm vụ Quốc hội giao tại Nghị quyết số 74/2022/QH15 về việc đẩy mạnh việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; thực trạng, nguyên nhân xảy ra tình trạng xử lý nhà đất khi sắp xếp lại đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã còn chậm, nhiều trụ sở hành chính còn bỏ trống trong khi còn nhiều cơ quan đang sử dụng chung nơi làm việc; một số vướng mắc trong quản lý tài sản công; việc bố trí kinh phí cho phong trào Đoàn, Đội; vấn đề bảo hiểm bắt buộc xe cơ giới; tình trạng bán hàng không có hóa đơn tài chính gây thất thu thuế cho ngân sách nhà nước; vấn đề triển khai cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp; chính sách cho vay đối với hộ nghèo ở vùng khó khăn.
Về lĩnh vực ngân hàng: khó khăn, vướng mắc và giải pháp để góp phần đẩy nhanh tiến độ giải ngân gói tín dụng phát triển nhà ở xã hội trong thời gian tới; giải pháp để đẩy nhanh hơn nữa việc thanh toán không dùng tiền mặt; nguyên nhân và các giải pháp để tăng trưởng tín dụng đạt mục tiêu 14% như đã đề ra; lộ trình thực hiện nhiệm vụ điều hành tín dụng theo yêu cầu tại Nghị quyết số 62/2022/QH15 về hoạt động chất vấn tại Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV; nguyên nhân và giải pháp đối với tình trạng tín dụng đen; những khó khăn và giải pháp đối với việc huy động nguồn vốn tín dụng; việc xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém; chính sách tín dụng ưu đãi đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Từ 14h40 đến 17h00: Quốc hội tiến hành chất vấn về việc thực hiện một số nghị quyết của Quốc hội khóa XIV và từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV đến hết Kỳ họp thứ 4 về giám sát chuyên đề, chất vấn đối với các lĩnh vực: công thương; nông nghiệp và phát triển nông thôn; giao thông vận tải; xây dựng; tài nguyên và môi trường.
Bộ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Hồng Diên; Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan; Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Văn Thắng; Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị; Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh; Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà đã tham gia trả lời chất vấn. Tại phiên chất vấn, đã có 20 đại biểu đặt câu hỏi chất vấn và 7 đại biểu tranh luận, tập trung vào các nội dung sau:
Về lĩnh vực công thương: việc đầu tư phát triển năng lượng tái tạo ở Việt Nam.
Về lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn: việc chậm trễ trong thanh toán tiền nhân công giao khoán bảo vệ rừng; vấn đề di dân để phục vụ phòng, chống thiên tai, tái định cư; việc tổ chức thực hiện chương trình nước sạch nông thôn.
Về lĩnh vực giao thông vận tải: trách nhiệm trong việc trình, triển khai các dự án giao thông; quy định về tốc độ tối đa trên các tuyến đường cao tốc; tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đường cao tốc; phân kỳ đầu tư đối với các dự án đường cao tốc; việc xây dựng trạm dừng nghỉ trên các tuyến đường cao tốc; phân cấp, phân quyền đấu nối các công trình thiết yếu trên các tuyến quốc lộ; việc huy động vốn đầu tư cho tăng trưởng giao thông vận tải hàng không; nguyên nhân, trách nhiệm và giải pháp của Bộ Giao thông vận tải đối với vấn đề tai nạn giao thông; việc triển khai đầu tư một số tuyến đường sắt; việc tháo gỡ khó khăn đối với các dự án đầu tư đối tác công tư trong lĩnh vực giao thông; vấn đề chất lượng các công trình giao thông; giải pháp tháo gỡ đối với các dự án BOT.
Về lĩnh vực xây dựng: giải pháp chỉnh trang, cải thiện môi trường đô thị.
Về lĩnh vực tài nguyên và môi trường: cơ chế, chính sách phù hợp giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường của hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải; việc phát triển thị trường tín chỉ các bon ở Việt Nam; nguyên nhân và các giải pháp phòng, chống lũ quét, sạt lở; trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trường đối với tình trạng khai thác khoáng sản trái phép; giải pháp đối với tình trạng ô nhiễm nước sông Cầu.
Ngày 07/11, Quốc hội đã dành cả ngày để tiếp tục tiến hành chất vấn và trả lời chất vấn về việc thực hiện một số nghị quyết của Quốc hội khóa XIV về giám sát chuyên đề, chất vấn và nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề, chất vấn từ đầu nhiệm kỳ khóa XV đến hết Kỳ họp thứ 4.
Từ 8h00 đến 9h10: Quốc hội tiếp tục tiến hành chất vấn về việc thực hiện một số nghị quyết của Quốc hội khóa XIV và từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV đến hết Kỳ họp thứ 4 về giám sát chuyên đề, chất vấn đối với các lĩnh vực: công thương; nông nghiệp và phát triển nông thôn; giao thông vận tải; xây dựng; tài nguyên và môi trường.
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên; Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan; Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Văn Thắng; Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị; Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh đã tham gia trả lời chất vấn. Tại phiên chất vấn, đã có 09 đại biểu đặt câu hỏi chất vấn và 05 đại biểu tranh luận, tập trung vào các nội dung sau:
Về lĩnh vực công thương: giải pháp đối với tình trạng hàng giả, hàng nhái; giải pháp quản lý đối với lĩnh vực thương mại điện tử; trách nhiệm của Bộ Công Thương trong việc quản lý các loại hương liệu thuốc lá điện tử; giải pháp đưa Nhà máy Nhiệt điện Long Phú 1 sớm đi vào vận hành.
Về lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn: biện pháp duy trì tính bền vững cho những sản phẩm OCOP.
Về lĩnh vực giao thông vận tải: tình hình triển khai nghiên cứu thí điểm dùng cát biển làm vật liệu đắp nền đường.
Về lĩnh vực xây dựng: giải pháp khắc phục tình trạng quy hoạch treo, dự án treo.
Về lĩnh vực tài nguyên và môi trường: vấn đề xử lý nước thải ở khu công nghiệp, cụm công nghiệp; kết quả thực hiện việc xử lý, thu gom chất thải rắn sinh hoạt; giải pháp để khắc phục hạn chế trong quản lý, sử dụng đất đai ở các công ty nông, lâm nghiệp.
Từ 9h10 đến 11h30 và từ 14h00 đến 15h00: Quốc hội tiến hành chất vấn về việc thực hiện một số nghị quyết của Quốc hội khóa XIV và từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV đến hết Kỳ họp thứ 4 về giám sát chuyên đề, chất vấn đối với các lĩnh vực: tư pháp; nội vụ; an ninh, trật tự, an toàn xã hội; thanh tra; tòa án; kiểm sát; kiểm toán.
Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long; Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà; Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm; Tổng Thanh tra Chính phủ Đoàn Hồng Phong; Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Nguyễn Hòa Bình; Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao Lê Minh Trí; Tổng Kiểm toán nhà nước Ngô Văn Tuấn; Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang đã tham gia trả lời chất vấn. Tại phiên chất vấn, đã có 28 đại biểu đặt câu hỏi chất vấn và 9 đại biểu tranh luận, tập trung vào các nội dung sau:
Về lĩnh vực tư pháp: giải pháp đối với việc chậm ban hành văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật; trách nhiệm và giải pháp của Bộ Tư pháp trong xây dựng thể chế; vướng mắc trong việc thực hiện Thông tư 65/2021/TT-BTC ngày 29/7/2021 của Bộ Tài chính quy định về lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo dưỡng, sửa chữa tài sản công; giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thi hành án hành chính; trách nhiệm quản lý nhà nước về giám định tư pháp; dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 55/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của bộ máy pháp chế có chính sách đủ mạnh để thu hút, giữ chân nguồn nhân lực pháp chế.
Về lĩnh vực nội vụ: chính sách tiền lương đối với đội ngũ không phải công chức trong cơ quan quản lý nhà nước; giải pháp cải thiện tiền lương của nhân viên trường học; chính sách tiền lương đối với giáo viên mầm non; giải pháp để thực hiện cải cách chính sách tiền lương đồng bộ, toàn diện theo Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương về tiếp tục xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới; giải pháp giải quyết tình trạng thiếu giáo viên; chính sách đối với cán bộ không chuyên trách cấp xã, thôn, tổ dân phố; giải pháp để hoàn thành việc xây dựng vị trí việc làm; giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính công; giải pháp thực hiện thành công Nghị quyết số 35/2023/UBTVQH15 ngày 12/7/2023 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2023 - 2030.
Về lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội: giải pháp giải quyết vấn đề pháp lý đối với người dân di dân tự phát tại Tây Nguyên; giải pháp để cảnh sát khu vực có thể đảm bảo nhiệm vụ khi cắt giảm biên chế; giải pháp để bảo vệ dữ liệu cá nhân; giải pháp trong việc tiếp tục điều tra các vụ án tham nhũng để không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; giải pháp đối với những vướng mắc trong quá trình thực hiện quy định pháp luật về phòng cháy, chữa cháy của nhiều tổ chức, doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; giải pháp hiệu quả đối với tình trạng thanh thiếu niên sử dụng ma túy.
Về lĩnh vực thanh tra: trách nhiệm, giải pháp nâng cao chất lượng kiến nghị khởi tố các vụ việc có dấu hiệu tội phạm phát hiện trong quá trình thanh tra; việc thành lập Tổ công tác để thanh tra lại kết quả của Đoàn thanh tra có đúng luật không; thời gian kết thúc vụ việc tại dự án nhà ở thương mại thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương; giải pháp để triển khai Nghị quyết Kỳ họp thứ 4 của Quốc hội trong đó yêu cầu tăng cường kiểm soát quyền lực trong hoạt động thanh tra, xử lý nghiêm các vi phạm, tiêu cực trong hoạt động thanh tra; kết quả thực hiện các nội dung yêu cầu trong Nghị quyết số 74/2022/QH15 ngày 15/11/2022 của Quốc hội về đẩy mạnh việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; trách nhiệm quản lý, bồi dưỡng đội ngũ công chức làm công tác thanh tra.
Về lĩnh vực tòa án: giải pháp thực hiện các chỉ tiêu và đáp ứng yêu cầu về cải cách tư pháp; vấn đề hòa giải thương mại.
Về lĩnh vực kiểm toán: giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện các kiến nghị, kết luận kiểm toán.
Từ 15h30 đến 17h00: Quốc hội tiến hành chất vấn về việc thực hiện một số nghị quyết của Quốc hội khóa XIV và từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV đến hết Kỳ họp thứ 4 về giám sát chuyên đề, chất vấn đối với các lĩnh vực: khoa học và công nghệ; giáo dục và đào tạo; văn hóa, thể thao và du lịch; y tế; lao động, thương binh và xã hội; thông tin và truyền thông.
Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt; Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn; Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng; Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan; Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung; Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng đã tham gia trả lời chất vấn. Tại phiên chất vấn, các đại biểu đã đặt câu hỏi chất vấn, tập trung vào các nội dung sau:
Về lĩnh vực khoa học và công nghệ: gắn kết giữa nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ.
Về lĩnh vực giáo dục và đào tạo: cơ cấu của các kỳ thi trong chương trình giáo dục phổ thông; việc triển khai Nghị định số 116/2020/NĐ-CP ngày 25/9/2020 về chính sách hỗ trợ tiền đóng học phí, chi phí sinh hoạt đối với sinh viên sư phạm; nguyên nhân và giải pháp khắc phục tình trạng bạo lực học đường; kinh phí cho hoạt động Đoàn, Đội của các nhà trường.
Về lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch: giải pháp tạo cơ chế, nguồn lực cho lĩnh vực văn hóa.
Về lĩnh vực y tế: việc xây dựng và triển khai hồ sơ khám bệnh điện tử, khám chữa bệnh từ xa; giải pháp tháo gỡ khó khăn trong công tác y tế; việc sắp xếp trung tâm y tế cấp huyện; giải pháp đối với tình trạng chậm thanh toán bảo hiểm y tế; nguyên nhân dẫn đến việc chậm trễ sửa đổi Nghị định 09/2016/NĐ-CP ngày 28/01/2016 của Chính phủ quy định về tăng cường vi chất dinh dưỡng vào thực phẩm.
Về lĩnh vực lao động, thương binh và xã hội: giải pháp đối với vướng mắc trong cơ chế thu, quản lý học phí ở các trường nghề ngoài công lập; tồn tại, hạn chế, nguyên nhân và giải pháp đối với việc đưa người lao động dân tộc thiểu số đi làm việc ở nước ngoài; giải pháp tạo sinh kế, việc làm cho đối tượng lao động nữ bị ảnh hưởng do dịch COVID-19; trách nhiệm và giải pháp của Bộ nhằm nâng cao năng suất lao động.
Về lĩnh vực thông tin và truyền thông: tính chính danh của các cơ quan, tổ chức trên mạng xã hội; giải pháp của các nhà mạng nhằm phủ sóng tại tất cả các thôn, bản, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; giải pháp xử lý hiện tượng sử dụng các trang mạng quảng cáo thực phẩm, thuốc chữa bệnh chưa được kiểm chứng; tiến độ phủ sóng 4G, 5G của các nhà mạng; vấn đề bảo vệ sự xâm hại đời tư trên không gian mạng./.