In bài viết

Khẩn trương đưa chính sách vào cuộc sống giúp doanh nghiệp vượt khó và phát triển

10:11 - 04/07/2023

(Chinhphu.vn) - Với tinh thần chủ động nhận diện khó khăn, rào cản, kịp thời ban hành chính sách, giải pháp tháo gỡ cho doanh nghiệp, Chính phủ đã khẩn trương ban hành đầy đủ các chính sách, giải pháp, nhiệm vụ bây giờ là khẩn trương triển khai thực hiện sao cho hiệu quả, đưa chính sách, giải pháp vào thực tế "cuộc sống".

Doanh nghiệp Việt Nam: Nhận diện thách thức, phát huy năng lực vượt khó để phát triển - Ảnh 1.

Nguyên Tổng cục trưởng, Tổng cục Thống kê Nguyễn Bích Lâm.

Mặc dù dịch COVID-19 đã qua đi nhưng hệ luỵ của nó còn dai dẳng, đại dịch là nguồn gốc sâu xa gây nên cơn bão lạm phát và kinh tế toàn cầu suy giảm sâu, đặc biệt đối với các nền kinh tế hàng đầu thế giới. Kinh tế nước ta có độ mở lớn, xuất khẩu phụ thuộc vào tổng cầu thế giới, sản xuất phụ thuộc khá nhiều vào nhập khẩu nguyên, nhiên vật liệu.

Trong bối cảnh đó, cộng đồng doanh nhân luôn năng động, linh hoạt, chủ động vượt khó, không khoanh tay đứng nhìn, hăm hở lao vào sản xuất, kinh doanh, tạo nên thành tích tăng trưởng kinh tế ấn tượng trong những năm qua.

Tuy vậy, khu vực doanh nghiệp của nước ta còn nhỏ và yếu, khả năng chống chịu trước các khó khăn không bền lâu. Toàn nền kinh tế có trên 850 nghìn doanh nghiệp, nhưng chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, với quy mô vốn và lao động nhỏ bé.

Cơ cấu doanh nghiệp theo các ngành kinh tế chưa hợp lý, với trên 1/3 số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và có động cơ khác. Số doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, nông lâm nghiệp và thủy sản chỉ chiếm khoảng 1/3 trong tổng số doanh nghiệp của toàn nền kinh tế. Doanh nghiệp dễ bị tổn thương bởi các cú sốc từ bên ngoài và các bất cập từ nội tại của nền kinh tế.

Doanh nghiệp nước ta đang trong tình cảnh kinh doanh đầy khắc nghiệt

Nhìn ra thế giới, năm 2022, lạm phát gây nỗi ám ảnh kinh hoàng đối với kinh tế thế giới. Người dân các nước Mỹ, cộng đồng chung châu Âu, Vương quốc Anh và nhiều nước khác phải gánh chịu mức lạm phát cao nhất trong mấy thập kỷ qua, làm giảm sức mua và thay đổi cơ cấu chi tiêu của hộ gia đình. Tổng cầu kinh tế thế giới và các nước là đối tác thương mại lớn của nước ta suy giảm. Điều này đang tác động trực tiếp tới lĩnh vực sản xuất của Việt Nam.

Chỉ số Nhà Quản trị mua hàng (PMI) ngành Sản xuất Việt Nam đã giảm xuống 45,3 điểm trong tháng 5/2023 so với 46,7 điểm trong tháng 4, đây là tháng thứ ba liên tiếp chỉ số PMI giảm và ở dưới ngưỡng 50 điểm. Mức giảm của tháng 5/2023 là sâu nhất, đáng kể nhất kể từ tháng 9/2021.

Chỉ số PMI tháng 5 phản ánh sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới giảm mạnh hơn; việc làm cùng với hoạt động mua hàng và niềm tin kinh doanh tiếp tục giảm. Đặc biệt, số lượng đơn đặt hàng mới giảm nhanh, với mức giảm lớn nhất trong 20 tháng qua; số lượng đơn hàng mới từ nước ngoài giảm tháng thứ ba liên tiếp.

Giám đốc Kinh tế tại S&P Global Market Intelligence, ông Andrew Harker nhận định: "Số lượng đơn đặt hàng mới giảm mạnh trong tháng 5 là nguyên nhân dẫn đến lo ngại ngành sản xuất của Việt Nam có thể trải qua thời kỳ suy giảm kéo dài chứ không phải chỉ là một giai đoạn giảm tạm thời."

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, chỉ số sản xuất công nghiệp quý II/2023 của ngành công nghiệp chế biến chế tạo giảm 0,4% so với cùng kỳ năm trước. Đây là một trong những nguyên nhân giải thích GDP 6 tháng đầu năm 2023 chỉ tăng 3,72%, mức tăng thấp nhất của 6 tháng đầu năm giai đoạn 2016-2023.

Doanh nghiệp Việt Nam: Nhận diện thách thức, phát huy năng lực vượt khó để phát triển - Ảnh 2.

Sáu tháng đầu năm 2023, đơn hàng của nhiều ngành xuất khẩu chủ lực sụt giảm nghiêm trọng.

Hiện nay, doanh nghiệp đang đương đầu với hàng loạt khó khăn, đầu tiên phải kể đến đơn hàng sụt giảm do tổng cầu thế giới và trong nước suy yếu. Sáu tháng đầu năm 2023, đơn hàng của nhiều ngành xuất khẩu chủ lực sụt giảm nghiêm trọng, đặc biệt ngành dệt may, da giày, nội thất, nhôm công nghiệp, sắt thép, xi măng... khiến nhiều doanh nghiệp phải giảm quy mô sản xuất, giảm nhân công. 

Bên cạnh đó, xu hướng ngày càng gia tăng các vụ việc điều tra phòng vệ thương mại đối với hàng hóa của Việt Nam, khiến doanh nghiệp bị động và gặp nhiều bất lợi trong tiếp cận thị trường xuất khẩu.

Doanh nghiệp thiếu đơn hàng diễn ra phổ biến, lao động mất việc làm tại nhiều khu công nghiệp. Trong 5 tháng đầu năm 2023, đã có 509.903 người lao động chiếm khoảng 3,4% tổng số lao động trong doanh nghiệp bị ảnh hưởng việc làm như mất việc, thôi việc, giảm giờ làm, tạm hoãn hợp đồng lao động hoặc nghỉ không lương.

Trong đó, số lao động bị mất việc, thôi việc là 279.409 người, chiếm 54,79%. Số lao động phải cắt giảm việc làm sẽ tăng cao, lan rộng sang các ngành nghề khác nếu khó khăn về thiếu đơn hàng, thiếu nguyên vật liệu, giá năng lượng không được giải quyết trong thời gian tới.

Hai là doanh nghiệp đang cạn kiệt và khó tiếp cận nguồn vốn. Sau hai năm sản xuất cầm chừng, sức mua tiêu dùng sụt giảm làm cho nguồn vốn của doanh nghiệp cạn kiệt, vốn vay ngân hàng đến kỳ phải trả và trái phiếu doanh nghiệp đến kỳ đáo hạn. 

Bên cạnh đó việc hoàn thuế và dòng tiền về chậm khiến nhiều doanh nghiệp lao đao, sản xuất cầm chừng. Đặc biệt, nhiều doanh nghiệp phải bán sản phẩm thấp hơn giá thành để có vốn hoạt động, phải bán rẻ tài sản, bán những gì có thể bán được với giá bằng nửa giá trị thực để tránh khả năng vỡ nợ. Nguy cơ doanh nghiệp phải bán, thậm chí có những thương hiệu tốt phải chuyển nhượng, hợp tác với các doanh nghiệp, quỹ đầu tư ngoại vì không cầm cự được.

Trong thời gian qua, mặt bằng lãi suất đã được giảm tương đối sâu. Chỉ trong vòng 3 tháng, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh giảm liên tiếp 4 lần các mức lãi suất với mức giảm 0,5% - 2,0%/năm. 

Mặc dù vậy, tăng trưởng tín dụng vẫn ở mức thấp. Đến thời điểm 20/6/2023 chỉ tăng 3,13%, chưa bằng 1/4 mục tiêu tăng trưởng tín dụng cả năm khoảng 14%-15%. Trong khi đó cùng kỳ năm trước tăng trưởng tín dụng đạt 8,51%, phản ánh thực tế sản xuất kinh doanh khó khăn, hấp thụ vốn của doanh nghiệp và toàn nền kinh tế hạn chế.

Nguyên nhân của việc tín dụng tăng trưởng chậm là do doanh nghiệp khó khăn, hàng tồn kho nhiều, một số doanh nghiệp phải giảm bớt lao động. Giá nguyên vật liệu nhập khẩu tăng cao dẫn tới giá cả hàng hoá tăng, sức mua trong nước và thế giới đều suy giảm, gây khó khăn về đầu ra tiêu thụ sản phẩm, dẫn đến nhu cầu vay vốn để sản xuất giảm sút. Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp có tình hình tài chính suy yếu, không có phương án kinh doanh khả thi nên chưa đáp ứng yêu cầu vay vốn của ngân hàng.

Ba là niềm tin của doanh nghiệp và người tiêu dùng sụt giảm khi một bộ phận cán bộ, công chức trong cơ quan nhà nước ở các cấp chậm trễ trong thực thi công việc, mỗi nơi thực thi một kiểu. Có những quy định, chính sách, khung pháp lý không có tính khả thi, chẳng hạn như quy định về phòng cháy chữa cháy đã cản trở hoạt động của doanh nghiệp; văn bản pháp luật thiếu rõ ràng, khó thực thi đã ảnh hưởng khá nhiều tới niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp vào môi trường kinh doanh. 

Bên cạnh đó, việc hoàn thuế VAT cho các mặt hàng xuất khẩu của ngành gỗ, cao su đang gặp nhiều trở ngại với quy trình xác minh nguồn gốc phức tạp, không nhất quán cách làm giữa các địa phương, không nhất quán giữa thời gian xác minh được công bố với thời gian thực tế làm đọng vốn với số tiền rất lớn của doanh nghiệp.

Với phương thức kinh doanh kém văn minh, "chặt chém" khách trong mùa cao điểm, chất lượng hàng hóa và dịch vụ chưa tạo được niềm tin đã đẩy một bộ phận người tiêu dùng đến với hàng ngoại, làm xói mòn nỗ lực cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam". 

Đơn cử thời gian qua, có Hãng hàng không dự báo nhu cầu đi lại sẽ tăng cao, chèn ép khách du lịch trong nước bằng cách nâng giá vé nội địa gấp đôi, thậm chí gần gấp ba trong dịp nghỉ lễ 30/4 và ngày Quốc tế lao động 1/5 khiến người dân quay lưng với du lịch trong nước, nhiều điểm du lịch ưa thích rơi vào cảnh đìu hiu. Đây là bài học đáng để ngành Hàng không và các ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh phải suy ngẫm. Để phát triển ổn định và bền vững các tổ chức kinh tế cần xây dựng, thực thi đạo đức kinh doanh, tạo dựng niềm tin đối với người tiêu dùng.

Bốn là thủ tục hành chính và lo ngại bị hình sự hóa trong hoạt động kinh tế; sự hỗ trợ của chính quyền địa phương kém hiệu quả, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.

Doanh nghiệp Việt Nam: Nhận diện thách thức, phát huy năng lực vượt khó để phát triển - Ảnh 3.

Trong 6 tháng đầu năm 2023 có 113.550 doanh nghiệp gia nhập thị trường, gấp 1,13 lần số doanh nghiệp rút khỏi thị trường.

Thách thức từ bất cập trong nội tại của nền kinh tế đối với doanh nghiệp

Bên cạnh nguyên nhân khách quan do suy thoái kinh tế thế giới, doanh nghiệp rơi vào tình cảnh khó khăn còn có nguyên nhân từ những bất cập trong nội tại của nền kinh tế, trước hết đó là thể chế, chính sách còn mâu thuẫn, xu thế cải cách chững lại khiến môi trường kinh doanh xấu đi, điều kiện kinh doanh đang có rào cản khó vượt hơn trước.

Sự chậm trễ, kém hiệu quả trong thực thi các chính sách, giải pháp tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp do một số bộ, cơ quan, địa phương và một bộ phận cán bộ, công chức né tránh, đùn đẩy công việc, sợ trách nhiệm, không quyết định công việc thuộc thẩm quyền đã đẩy doanh nghiệp lâm vào tình cảnh ngày càng khó khăn.

Bên cạnh đó, kinh tế trong nước bắt đầu suy giảm từ quý IV năm 2022 nhưng mặt bằng lãi suất tăng nhanh từ tháng 7/2022, với lãi vay trung bình khoảng 12% một năm gây tắc nghẽn dòng vốn. Trong 6 tháng đầu năm 2023, mặt bằng lãi vay hạ nhiệt nhưng vẫn cao so với ngưỡng chịu đựng của doanh nghiệp.

Bức tranh doanh nghiệp gia nhập và rút khỏi thị trường

Bức tranh doanh nghiệp gia nhập và rút khỏi thị trường trong 6 tháng đầu năm 2023 là minh chứng rõ nét, phản ảnh khá đầy đủ những khó khăn, sự khắc nghiệt mà cộng đồng doanh nghiệp đang đối mặt.

Nhìn lại 6 tháng đầu năm 2019 - năm trước khi xảy ra đại dịch, số doanh nghiệp gia nhập thị trường (doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động) gấp 1,74 lần số doanh nghiệp rút khỏi thị trường (doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể và doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể).

Trong 6 tháng đầu năm 2020 - năm nổ ra đại dịch, nhưng thời gian này đại dịch chưa ảnh hưởng nhiều đến kinh tế nước ta, số doanh nghiệp gia nhập thị trường gấp 1,54 lần số doanh nghiệp rút khỏi thị trường, năm 2020, doanh nghiệp bắt đầu khó khăn trong sản xuất kinh doanh.

Năm 2021, thế giới đã khống chế thành công đại dịch, kinh tế thế giới phục hồi với mức tăng 5,9%. Trong đó, các nước phát triển tăng 5,2%, các nước mới nổi và đang phát triển tăng 6,4%. Tuy vậy, năm 2021 Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề từ đại dịch, tăng trưởng kinh tế chỉ đạt 2,58%. Trong 6 tháng đầu năm 2021, số doanh nghiệp gia nhập thị trường chỉ gấp 1,32 lần số doanh nghiệp rút khỏi thị trường, phản ánh thực tế rất khó khăn của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam.

Năm 2022, kinh tế nước ta phục hồi sau đại dịch, tăng trưởng kinh tế đạt mức ấn tượng 8% cao gấp 2,5 lần so với mức tăng 3,19% của kinh tế thế giới. Tuy vậy, số doanh nghiệp gia nhập thị trường chỉ gấp 1,4 lần số doanh nghiệp rút khỏi thị trường, cao hơn 0,08 lần so với năm 2021. Điều này phản ánh bức tranh doanh nghiệp có dấu hiệu phục hồi, nhưng vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức.

Trong 6 tháng đầu năm 2023 có 113.550 doanh nghiệp gia nhập thị trường, gấp 1,13 lần số doanh nghiệp rút khỏi thị trường, cứ 11 doanh nghiệp gia nhập thì cũng có 10 doanh nghiệp rút khỏi thị trường. Đặc biệt, số doanh nghiệp rút khỏi thị trường có xu hướng tăng, trong khi số doanh nghiệp thành lập mới có xu hướng chững lại. Bên cạnh đó, số vốn đăng ký của doanh nghiệp thành lập mới tiếp tục xu hướng giảm và thấp hơn mức bình quân 6 tháng đầu năm giai đoạn 2018-2022.

Doanh nghiệp Việt Nam: Nhận diện thách thức, phát huy năng lực vượt khó để phát triển - Ảnh 4.

Nhiều chính sách, giải pháp đã được Chính phủ và các địa phương khẩn trương ban hành, triển khai thực hiện, khắc phục các điểm nghẽn và bất cập của nền kinh tế, tạo niềm tin cho cộng đồng doanh nghiệp.

Chính phủ hành động khẩn trương, linh hoạt có nhiều giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp

Với quan điểm Chính phủ luôn đồng hành, hỗ trợ tối đa cho doanh nghiệp phát triển, coi việc tháo gỡ các rào cản, khó khăn cho doanh nghiệp là nhiệm vụ chính trị hàng đầu. 

Trong chỉ đạo, điều hành, Chính phủ thực hiện phương châm: "Đoàn kết kỷ cương, bản lĩnh linh hoạt, đổi mới sáng tạo, kịp thời hiệu quả". Từ đầu năm đến nay nhiều chính sách, giải pháp đã được Chính phủ và các địa phương khẩn trương ban hành, triển khai thực hiện, tạo hiệu ứng tích cực, khắc phục các điểm nghẽn và bất cập của nền kinh tế, tạo niềm tin cho cộng đồng doanh nghiệp.

Trong 6 tháng đầu năm 2023, Chính phủ đã thực thi chính sách tiền tệ và tài khoá linh hoạt, phù hợp với diễn biến và thực tế tình hình kinh tế trong nước, khu vực và thế giới. Thực hiện có trọng tâm chính sách tài khóa nhằm tháo gỡ một phần khó khăn về vốn cho doanh nghiệp trong bối cảnh thị trường đầu ra trầm lắng.

Ngày 6/1/2023, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 01/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước và cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2023. Nghị quyết đã xác định khá toàn diện các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội năm 2023.

Nắm bắt tình hình khó khăn của doanh nghiệp, ngày 14/4/2023, Chính phủ ban hành Nghị định số 12/2023/NĐ-CP, cho phép giãn hoãn thuế, tiền thuê đất, giảm một số thuế, phí với tổng quy mô gói hỗ trợ khoảng 198.400 tỷ đồng.

Ngày 21/4/2023, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 58/NQ-CP về hỗ trợ doanh nghiệp, với các giải pháp xử lý những khó khăn vướng mắc trước mắt, trong ngắn hạn cũng như trong trung và dài hạn của doanh nghiệp. Nghị quyết bao phủ toàn diện các giải pháp nhằm xử lý những vấn đề tồn đọng trong hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế; giải quyết trực diện ngay các vấn đề trước mắt, mới phát sinh.

Tập trung tháo gỡ rào cản về pháp lý nhằm khơi thông nguồn lực cho đầu tư sản xuất kinh doanh; tăng cường khả năng tiếp cận nguồn vốn ưu đãi, nguồn lực hỗ trợ của nhà nước; nâng cao chất lượng và kỹ năng tay nghề của người lao động; giảm tối đa hoạt động thanh tra, kiểm tra theo quy định, nhằm giảm thiểu việc gây phiền toái, nhũng nhiễu doanh nghiệp bấy lâu nay của một bộ phận các cơ quan nhà nước.

Việc ban hành Nghị quyết số 58/NQ-CP nhằm khơi thông các điểm nghẽn với phương châm "sớm nhất, hiệu quả nhất", huy động, giải phóng các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển.

Bên cạnh đó, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng đã thực thi chính sách tiền tệ khác biệt, mang tính đột phá so với các nước trên thế giới. 

Việc giảm lãi suất điều hành có hiệu lực từ ngày 15/3/2023 khiến Việt Nam trở thành nền kinh tế đầu tiên ở Đông Nam Á nới lỏng chính sách tiền tệ nhằm hỗ trợ thanh khoản, xử lý câu chuyện thiếu vốn của khu vực doanh nghiệp và phục hồi kinh tế trong bối cảnh Cục Dự trữ Liên bang Mỹ và Ngân hàng Trung ương châu Âu tiếp tục tăng lãi suất để kiểm soát lạm phát.

Ngày 16/6/2023, Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định số 1123/QĐ-NHNN giảm lãi suất điều hành với các mức giảm từ 0,25% - 0,5%/năm. Như vậy, trong 6 tháng đầu năm, Ngân hàng Nhà nước đã 4 lần liên tiếp giảm lãi suất điều hành để hỗ trợ doanh nghiệp và người dân tăng khả năng tiếp cận vốn, góp phần phục hồi sản xuất kinh doanh.

Cùng với giảm lãi suất, ngày 23/4/2023, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành liên tiếp hai thông tư có hiệu lực ngay nhằm cơ cấu thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ để hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước cũng nới lỏng một số điều kiện về cho vay, đầu tư trái phiếu doanh nghiệp của các tổ chức tín dụng, góp phần tháo gỡ khó khăn hiện tại của thị trường trái phiếu doanh nghiệp. 

Hai thông tư này cung cấp cho các ngân hàng thương mại công cụ cần thiết để xử lý các vấn đề liên quan đến trái phiếu doanh nghiệp và các khoản cho vay bất động sản.

Doanh nghiệp Việt Nam: Nhận diện thách thức, phát huy năng lực vượt khó để phát triển - Ảnh 5.

Giảm 2% thuế VAT có tác động trực tiếp làm tăng tổng cầu tiêu dùng cuối cùng của nền kinh tế, đưa đến sự phục hồi nhanh hơn cho doanh nghiệp.

Để kích cầu tiêu dùng của thị trường trong nước với quy mô 100 triệu dân, Chính phủ ban hành Nghị quyết về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về giảm thuế giá trị gia tăng (VAT). Với tinh thần Quốc hội cùng đồng hành với Chính phủ, ngày 24/6/2023, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết giảm 2% thuế VAT được thực hiện từ ngày 1/7/2023.

Việc giảm 2% thuế VAT có tác động trực tiếp làm tăng tổng cầu tiêu dùng cuối cùng của nền kinh tế, đưa đến sự phục hồi nhanh hơn cho doanh nghiệp trong thời điểm các doanh nghiệp đang gặp khó khăn về tìm kiếm thị trường đầu ra khi tổng cầu trong nước, tổng cầu thế giới suy giảm. Khi thị trường tiêu thụ được khơi thông, doanh nghiệp sẽ từng bước phục hồi, mở rộng sản xuất, đảm bảo ổn định việc làm cho người lao động, giải quyết được hàng tồn kho, nợ đọng vốn.

Thị trường bất động sản có vai trò quan trọng trong nền kinh tế và tác động đến nhiều ngành, nghề, lĩnh vực. Trong năm 2022 thị trường bất động sản gặp nhiều khó khăn về thể chế, nguồn vốn tín dụng, trái phiếu, việc tổ chức thực thi của địa phương cần được tập trung tháo gỡ, thúc đẩy.

Trước tình hình này, ngày 1/3/2023, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 33/NQ-CP về một số giải pháp tháo gỡ và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển an toàn, lành mạnh, bền vững nhằm tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc đặc biệt là về thể chế, tổ chức thực hiện và nguồn vốn cho thị trường bất động sản.

Những văn bản pháp quy đề cập ở trên cho thấy, Chính phủ rất khẩn trương, linh hoạt trong thực thi chính sách tiền tệ hài hòa, hợp lý, chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác, góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và thị trường tiền tệ, giảm lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp, người dân, hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế.

Cùng với các nghị quyết, nghị định, quyết định, Thủ tướng Chính phủ có các Chỉ thị, Công điện chỉ đạo kịp thời các bộ, ngành và địa phương xử lý các vấn đề cụ thể, nhằm tháo gỡ khó khăn cho phát triển.

Ngày 19/4/2023, Thủ tướng Chính phủ ban hành Công điện số 280/CĐ-TTg nhằm chấn chỉnh những tồn tại, hạn chế, tăng cường trách nhiệm, đẩy mạnh tinh thần dám nói, dám nghĩ, dám làm của một bộ phận cán bộ, công chức tại các bộ, cơ quan, địa phương; khắc phục tình trạng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm trong giải quyết công việc; bảo đảm kỷ luật, kỷ cương hành chính và nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo, điều hành.

Công điện số 280/CĐ-TTg phản ánh tinh thần thẳng thắn, không ngại va chạm, nhìn thẳng vào sự thật, trong chỉ đạo điều hành, vì lợi ích của đất nước, của nhân dân với mục tiêu tất cả cho sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội đất nước của người đứng đầu Chính phủ.

Doanh nghiệp Việt Nam: Nhận diện thách thức, phát huy năng lực vượt khó để phát triển - Ảnh 6.

Cộng đồng doanh nghiệp phát huy tinh thần chủ động, linh hoạt chuẩn bị đầy đủ các điều kiện duy trì và thúc đẩy sản xuất kinh doanh, bảo đảm nguồn cung và lưu thông hàng hóa.

Cần làm gì để các giải pháp phát huy hiệu quả, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp?

Với tinh thần chủ động nhận diện khó khăn, rào cản, kịp thời ban hành chính sách, giải pháp tháo gỡ cho doanh nghiệp, Chính phủ đã khẩn trương ban hành đầy đủ các chính sách, giải pháp, nhiệm vụ bây giờ là khẩn trương triển khai thực hiện sao cho hiệu quả, đưa chính sách, giải pháp vào thực tế "cuộc sống". 

Bên cạnh việc khẩn trương triển khai đồng thời, đầy đủ các giải pháp đã ban hành, thiết nghĩ, Chính phủ cần quan tâm chỉ đạo một số nội dung cụ thể sau.

Một là khơi thông nguồn vốn tạo thanh khoản cho doanh nghiệp: Chính phủ cần tiếp tục thực hiện đồng bộ, nhất quán chính sách tài khoá và tiền tệ, trong đó chính sách tài khóa là trọng tâm vì hiệu quả tức thời của loại chính sách này. Chính sách tiền tệ có độ trễ và hoạt động của ngân hàng là loại hình kinh doanh đặc biệt. Để có thể hưởng lợi được từ chính sách tiền tệ, doanh nghiệp phải đáp ứng một số điều kiện bắt buộc, tuy vậy, những điều kiện này không dễ đáp ứng trong bối cảnh hiện nay.

Bên cạnh đó, Chính phủ cần có cơ chế đặc biệt để sớm hoàn thuế cho doanh nghiệp như cho phép doanh nghiệp được hoàn thuế trong vòng 3 tháng sau khi xuất khẩu đơn hàng; nghiên cứu, giảm có thời hạn mức thuế thu nhập doanh nghiệp với các đơn vị xuất khẩu; đồng thời nghiên cứu sớm hoàn thuế VAT. Những giải pháp này nếu được thực hiện sẽ giải phóng lượng vốn bị đọng cho doanh nghiệp.

Mặt khác, Chính phủ cần có chính sách tín dụng phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh và nhu cầu của từng ngành, từng lĩnh vực. Cần xác định các ngành, lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu chủ lực của nền kinh tế, các doanh nghiệp đã khẳng định thương hiệu để có gói tín dụng ưu đãi.

Chẳng hạn, đối với ngành Thủy sản cần có gói tín dụng cho nuôi trồng thuỷ sản và mua dự trữ nguyên liệu để chế biến xuất khẩu trong 6 tháng cuối năm và quý I năm 2024. 

Những gói tín dụng này rất cần thiết nhằm ứng phó với tình trạng hiện nay doanh nghiệp không có đơn hàng xuất khẩu, nhưng để có và thực hiện được đơn hàng xuất khẩu trong thời gian tới cần có vốn ưu đãi khiến người nuôi trồng thuỷ sản yên tâm tiếp tục thả nuôi, cung cấp đủ nguyên liệu cho doanh nghiệp chế biến xuất khẩu.

Tương tự đối với ngành Dệt, May cần ưu đãi tín dụng để mua nguyên vật liệu, trả lương người lao động giống như gói vay ưu đãi 0% trả lương do Ngân hàng Chính sách xã hội đã thực hiện trong giai đoạn đại dịch.

Hai là, giảm chi phí nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp: Bộ Tài chính nghiên cứu duy trì chính sách miễn, giảm, gia hạn nộp thuế, tiền thuê đất; miễn, giảm các loại phí, lệ phí. Cần có các giải pháp hỗ trợ liên quan đến chính sách về các khoản đóng góp bắt buộc của doanh nghiệp đối với người lao động, nhưng cần đảm bảo quyền lợi của người lao động như mức đóng vào quỹ Bảo hiểm thất nghiệp; giảm mức đóng kinh phí công đoàn.

Ba là, hoàn thiện môi trường đầu tư, kinh doanh: Chính phủ tiếp tục chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; hạn chế kiểm tra, thanh tra gây khó khăn cho doanh nghiệp; không ban hành thêm văn bản mới gây gánh nặng về thuế, phí, thủ tục hành chính cho doanh nghiệp. Các cơ quan chức năng sớm hoàn thành điều tra các vụ án hiện tại và đưa ra nghị quyết không hình sự hóa các quan hệ kinh tế.

Bốn là, đảm bảo an ninh năng lượng: Cần chủ động xây dựng và thực hiện các giải pháp đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia; nâng cao năng lực và chất lượng dự báo, có giải pháp tổng thể đảm bảo đầy đủ nguồn cung xăng dầu dài hạn hơn. 

Đồng thời mở rộng, nâng cao năng lực dự trữ xăng dầu quốc gia đáp ứng dài hơn nhu cầu của nền kinh tế, giảm bớt lệ thuộc và tác hại của biến động giá xăng dầu thế giới đến sự ổn định và phát triển kinh tế của đất nước.

Cần chú ý đến vấn đề bảo đảm cung cấp điện, bởi đây là loại năng lượng quan trọng, không thể thiếu trong sản xuất và tiêu dùng. Theo đó, Bộ Công Thương cần dự báo nhu cầu, xây dựng kế hoạch, nhanh chóng thực thi các giải pháp đảm bảo cung ứng đủ điện cho sản xuất và tiêu dùng trong bất kỳ hoàn cảnh nào. 

Thiết nghĩ, Chính phủ cần giao cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu để ban hành chế tài, quy định ngành điện phải bồi thường cho doanh nghiệp khi bị cắt điện gây thiệt hại cho sản xuất.

Đặc biệt, Chính phủ khẩn trương xây dựng kế hoạch và lộ trình thực hiện chuyển đổi sang sử dụng năng lượng tái tạo, năng lượng xanh. Có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư sử dụng năng lượng tái tạo.

Năm là, Bộ Công Thương tăng cường và khẩn trương đàm phán thương mại, đa dạng hóa thị trường đầu vào và đầu ra để giảm phụ thuộc vào các thị trường truyền thống. Minh bạch, đơn giản hóa quy trình thương mại; khuyến khích và đẩy mạnh chia sẻ thông tin về thương mại và giá cả; giữ vững năng lực cạnh tranh và thị phần của hàng hóa Việt Nam trên thị trường thế giới. Các cơ quan chức năng cần nâng cao năng lực dự báo về xu hướng kinh tế, cập nhật các ưu đãi phát triển và cảnh báo rủi ro.

Sáu là, hỗ trợ công nghệ và tài chính để phát triển xanh và bền vững: Chính phủ nghiên cứu ban hành và thực thi các giải pháp đột phá, tạo động lực và điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận, ứng dụng và đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo. 

Trong trung hạn và dài hạn, Chính phủ cần hỗ trợ một phần tài chính và chuyên gia trong việc thực hiện các dự án xanh hóa như giảm nước thải, chất thải, sử dụng năng lượng tái tạo, chuyển đổi số.

Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội khẩn trương nghiên cứu xu hướng chuyển đổi nhu cầu lao động của thế giới và khu vực; xác định ngành, lĩnh vực ưu tiên phát triển trong những năm tới của toàn nền kinh tế, từng vùng, miền và địa phương; đào tạo nâng cao trình độ và kỹ năng của lao động nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bằng cách nâng cao năng suất lao động.

Khẩn trương đưa chính sách vào cuộc sống đưa doanh nghiệp vượt khó và phát triển - Ảnh 7.

Cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam cùng với tất cả các thực thể kinh tế của đất nước sẵn sàng đương đầu với thách thức, phát huy tối đa năng lực từng bước vượt qua mọi khó khăn, khẳng định vị thế kinh tế Việt Nam trên bản đồ kinh tế thế giới.

Đối với cộng đồng doanh nghiệp

Cộng đồng doanh nghiệp cần tiếp tục phát huy tinh thần chủ động, linh hoạt chuẩn bị đầy đủ các điều kiện duy trì và thúc đẩy sản xuất kinh doanh, bảo đảm nguồn cung và lưu thông hàng hóa. 

Song song với việc dự báo các loại nguyên, nhiên vật liệu có thể thiếu hụt để chủ động tìm kiếm nguồn và đối tác cung ứng kịp thời, doanh nghiệp cần đa dạng và đảm bảo nguồn cung cho sản xuất của từng nhóm nguyên vật liệu của mỗi ngành để không phụ thuộc vào một thị trường, một khu vực.

Chủ động nắm bắt, cập nhật thông tin và dự báo chính xác động thái thị trường, nhất là xu hướng, mức độ và lộ trình tăng giá, điều chỉnh lãi suất để chủ động trong xây dựng, điều chỉnh và thực hiện kế hoạch tài chính, kinh doanh.

Đẩy mạnh liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp vừa là giải pháp ứng phó bất ổn, vừa là công cụ để cạnh tranh chiến lược, nâng cao năng lực và khả năng thích ứng trước các biến động, bất ổn khó lường của kinh tế thế giới. Thực hiện liên kết, chia sẻ nguồn cung nguyên vật liệu; đơn hàng, thị trường; đổi mới dây chuyền công nghệ sản xuất.

Tập trung đầu tư chuyển sang sử dụng năng lượng tái tạo để chủ động ứng phó với các biến động không thuận về năng lượng, cắt giảm chi phí do giá năng lượng tăng cao; cải thiện hình ảnh thương hiệu, tạo sự khác biệt cho thương hiệu của doanh nghiệp trên thị trường, gia tăng lợi thế cạnh tranh và thu hút các nhà đầu tư.

Doanh nghiệp tạo ra trên 60% GDP của đất nước, là chủ thể quan trọng nhất trong phát triển kinh tế, tạo việc làm, nâng cao mức sống dân cư. Kết quả hoạt động của doanh nghiệp quyết định mức độ tăng trưởng kinh tế của đất nước. Doanh nghiệp là tài sản quý của đất nước, doanh nghiệp mạnh thì kinh tế tăng trưởng, đất nước hùng cường. 

Với tinh thần chủ động, linh hoạt, sáng tạo, đương đầu với khó khăn, thách thức của cộng đồng doanh nghiệp; với phương châm bản lĩnh linh hoạt, đổi mới sáng tạo, kịp thời hiệu quả trong điều hành của Chính phủ; với sự đồng hành kịp thời, hiệu quả của Quốc hội, cộng đồng doanh nghiệp nước ta cùng với tất cả các thực thể kinh tế của đất nước sẵn sàng đương đầu với thách thức, phát huy tối đa năng lực từng bước vượt qua mọi khó khăn, khẳng định vị thế kinh tế Việt Nam trên bản đồ kinh tế thế giới./.

Nguyễn Bích Lâm

Nguyên Tổng cục trưởng, Tổng cục Thống kê