Cổng Thông tin điện tử Chính phủ vừa tổ chức Tọa đàm trực tuyến "Điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ và mục tiêu tăng trưởng trong bối cảnh mới".
Tại tọa đàm, TS. Nguyễn Sĩ Dũng, người điều phối chương trình nêu vấn đề: Ngay từ tháng 10 năm ngoái, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đưa ra chủ trương chuyển chính sách tiền tệ từ "chặt chẽ" trước đó sang "chắc chắn" và đến nay, tiếp tục chuyển sang "linh hoạt, nới lỏng hơn".
Nêu quan điểm của mình TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng BIDV, thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách Tài chính - tiền tệ Quốc gia cho rằng: Chỉ đạo của Chính phủ, của Thủ tướng Chính phủ thời gian qua sát với tình hình cả quốc tế và trong nước.
Theo ông, điều kiện quốc tế và trong nước trong 2 năm vừa qua có rất nhiều biến động và nhiều yếu tố gọi là "đa khủng hoảng" xảy ra.
Trong bối cảnh đó, chúng ta đã có những điều chỉnh về mặt chính sách kinh tế vĩ mô nói chung và chính sách tiền tệ nói riêng phù hợp với bối cảnh, với thời điểm và mức độ.
Trong thời kỳ quý I-III năm ngoái, lạm phát của thế giới tương đối cao. Lúc đó chính sách tiền tệ của chúng ta là "chặt chẽ".
Cuối năm ngoái, về cơ bản lạm phát của chúng ta kiểm soát tốt và lạm phát toàn cầu có dấu hiệu chững lại, thì chúng ta chuyển sang trạng thái "chắc chắn" và thực hiện được đa mục tiêu.
Còn thời điểm hiện nay, Chính phủ cũng như Thủ tướng quyết định chuyển sang trạng thái "linh hoạt, nới lỏng". Tôi thấy rất phù hợp! TS. Cấn Văn Lực khẳng định và phân tích: Thực hiện quyết sách trên phụ thuộc vào 3 yếu tố quan trọng ban đầu.
Một là giá cả, lạm phát trên thế giới về cơ bản đã chững lại và đang giảm giá.
Thậm chí, ở một số thị trường còn giảm nhanh hơn chúng tôi dự báo, như ở Mỹ, lạm phát tháng 6 so với cùng kỳ năm trước chỉ khoảng 3% từ mức 9% của đỉnh điểm tháng 7-8/2022.
Giá cả các mặt hàng, đặc biệt là giá năng lượng, giá hàng hóa cơ bản cũng đã và đang giảm dần, trừ một vài mặt hàng nông sản thời gian gần đây, như gạo, cà phê…
Trong bối cảnh như vậy, áp lực đối với lạm phát, với tỉ giá trên thế giới đã giảm nhiệt đi rất nhiều.
Một bối cảnh nữa rất quan trọng là thực tiễn ở Việt Nam. Về cơ bản lạm phát (cả lạm phát tổng thể cũng như lạm phát lõi) đã và đang giảm dần từ đầu năm tới giờ. Lạm phát tổng thể hồi tháng 1 so với cùng kỳ năm trước ở mức khoảng 4,9%, tháng 6 vừa qua chỉ còn khoảng 2% so với cùng kỳ năm trước.
Còn tính bình quân 6 tháng là 3,29% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản đã và đang giảm dần dù chậm hơn, từ mức khoảng 5,21% đầu năm xuống 4,74% của tháng 6. Đấy là cơ sở rất quan trọng.
Thứ hai là kinh tế của chúng ta 2 quý vừa qua mặc dù có tiến triển hơn nhưng vẫn còn khó khăn, chịu tác động rất lớn từ những yếu tố đặc biệt bên ngoài và những yếu tố nội tại bên trong tồn tại lâu nay và vẫn phải tiếp tục xử lý. Vì thế, chúng ta đạt mức tăng trưởng chỉ 3,72% của 6 tháng đầu năm.
Rõ ràng, bây giờ chúng ta cần thay đổi chính sách phù hợp để phục hồi và hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế. Mặc dù vậy, chúng ta nới lỏng nhưng linh hoạt, tức là vẫn bảo đảm mục tiêu ổn định được kinh tế vĩ mô.
Cuối cùng là phối hợp đồng bộ hơn với các chính sách khác, trong đó có chính sách tài khóa, giải ngân vốn đầu tư công và cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thì chúng ta mới bảo đảm được thực hiện tốt các mục tiêu đã đề ra.
Tại phiên họp Chính phủ tháng 6 vừa qua, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã yêu cầu ưu tiên hơn cho mục tiêu tăng trưởng, thúc đẩy 3 động lực tăng trưởng (đầu tư, xuất khẩu, tiêu dùng), gắn với ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm đời sống Nhân dân, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển.
Nêu quan điểm về vấn đề này tại Tọa đàm trực tuyến "Điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ và mục tiêu tăng trưởng trong bối cảnh mới" do Cổng TTĐT Chính phủ tổ chức, Đại biểu Quốc hội Phan Đức Hiếu, Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội nhấn mạnh: Chủ trương điều hành chính sách tiền tệ nêu trong Nghị quyết phiên họp thường kỳ tháng 6 của Chính phủ là phù hợp. Phù hợp với cả bối cảnh của Việt Nam và thời điểm.
Điểm đầu tiên là phù hợp với nguyên tắc chung kết hợp, phối hợp giữa chính sách tài khóa và tiền tệ. Điểm phối hợp ấy thể hiện ở chỗ tùy vào từng thời điểm, chúng ta sẽ sử dụng nhiều hơn công cụ tài khóa hay sử dụng nhiều hơn công cụ tiền tệ.
Ví dụ như, ở thời điểm chúng ta xây dựng Nghị quyết 43, chúng ta hình dung gần như các hoạt động kinh tế xã hội ngừng. Rõ ràng chính sách tiền tệ trong bối cảnh đó sẽ phát huy hiệu quả rất thấp. Vì thế, tại thời điểm đó, chúng ta sử dụng chính sách tiền tệ thắt chặt và chính sách tài khóa nới lỏng là phù hợp.
Bây giờ bối cảnh đã hoàn toàn thay đổi, lao động, sản xuất, kinh doanh ở chừng mực nào đó phục hồi nhưng có thể thay đổi trạng thái và khó khăn của doanh nghiệp hiện nay, khó khăn về vốn, về dòng tiền là rất rõ. Hai là dư địa về mặt tài khóa của chúng ta đã thay đổi so với trước đây.
"Như vậy tôi cho rằng phù hợp ở thời điểm hiện tại cả về nguyên tắc chung trong điều hành cũng như bối cảnh thực tế, ta gọi là dư địa vĩ mô để thực hiện các chính sách này", chuyên gia Phan Đức Hiếu đánh giá.
Điểm thứ hai khi nói đến Nghị quyết phiên họp thường kỳ của Chính phủ thì các kinh nghiệm quốc tế đều được thể hiện khá rõ. Trong Nghị quyết lần này, đầu tiên là sự rõ ràng về mặt thông tin. Chính phủ chỉ đạo rất rõ ràng, có rất nhiều con số.
Ở đây chúng ta nhìn thấy, thứ nhất là "nới lỏng", "linh hoạt" được sử dụng thay cho "chặt chẽ", "chắc chắn".
Thứ hai, phấn đấu giảm ít nhất khoảng 1,5-2% lãi suất đã có. Chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cũng đã được xác định đâu đó 11%. Rõ ràng cái này rất cần thiết cho xã hội. Chúng ta cũng nhìn thấy ở đây nữa là dư địa, ta gọi là tính lâu dài ổn định của chính sách, đã bắt đầu xuất hiện.
Chúng ta biết rằng một trong các điểm thành công của Nghị quyết 128 về ứng phó với dịch đó là tính dài hạn và tiên đoán được. Lần này chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đã được xác định ít nhất là cho đến cuối năm nay.
Những thông điệp đưa ra vừa có tính rõ ràng vừa có thời hạn nào đó về mặt thời gian. Về dài hạn để doanh nghiệp có thể tiên liệu trước được, chuẩn bị các kịch bản, kế hoạch sản xuất kinh doanh.
Kinh nghiệm thứ ba của thế giới cũng được Chính phủ nêu trong nghị quyết là bên cạnh việc nới lỏng chính sách tiền tệ thì phải gia cố sự an toàn của hệ thống ngân hàng, xử lý dứt điểm những vấn đề phát sinh, rồi củng cố nền tảng của ngân hàng. Thậm chí có những giải pháp, tôi lấy ví dụ như rất thận trọng trong cung cấp tiếp tín dụng cho một số đối tác đang có dư nợ tín dụng trước đây.
Như vậy rõ ràng là lần này Nghị quyết xử lý rất phù hợp nhưng đồng thời có rất nhiều điểm thay đổi trong điều hành chính sách. Ông Phan Đức Hiếu nhấn mạnh là: Nghị quyết của Chính phủ đã nêu "cụ thể, rõ ràng, có thể tiên liệu trước được và đồng bộ, vừa tiền tệ vừa kết hợp yếu tố để đảm bảo an toàn".
Ông Phan Đức Hiếu chia sẻ thêm: Bối cảnh hiện nay khác rất nhiều thời điểm khó khăn trước đây. Đánh giá chung thì việc điều hành chính sách lần này có mấy điểm mới như thế này.
Đầu tiên là sự tự tin và bài bản, ít bị động hơn. Điều này rất là quan trọng. Chúng ta đã có những sự chuẩn bị kỹ càng cả ở Quốc hội cả ở Chính phủ, có sự tham vấn các chuyên gia.
Thứ hai, chúng ta thống nhất và đưa ra được một nguyên tắc, công thức cốt lõi để điều hành, dựa trên ổn định vĩ mô và kết hợp, phối hợp chính sách tài khóa, tiền tệ.
Khi chúng ta có một công thức như vậy và các biến số để chúng ta điều hành thay đổi theo từng giai đoạn thì rõ ràng là tạo ra dư địa rất lớn trong việc đưa ra một quyết định nhanh chóng hơn là chúng ta không có một công thức cố định. Trong đó, mỗi bài toán trong một giai đoạn lại phải kết hợp rất nhiều biến số khác nhau.
"Rõ ràng đây là dư địa thuận lợi và tôi cho rằng rất khác ở thời điểm hiện nay. Chúng ta đưa ra công thức này thì tính đến cả lâu dài, chính sách phối hợp tài khóa và tiền tệ không chỉ giải quyết vấn đề trước mắt mà cả vấn đề lâu dài.
Ổn định kinh tế vĩ mô hiện nay vẫn là nền tảng cấu trúc cốt lõi. Tôi nhấn mạnh là chính sách nới lỏng, linh hoạt tiền tệ lần này cho thấy chúng ta đã chủ động hơn, quyết đoán hơn trong việc đưa ra quyết định của mình", Đại biểu Quốc hội Phan Đức Hiếu nêu quan điểm./.
Từ góc nhìn của cộng đồng doanh nghiệp, ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký, Trưởng ban Pháp chế, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) ro rằng việc chuyển hướng chính sách tiền tệ từ "chặt chẽ, chắc chắn" đến nay sang hướng "linh hoạt, nới lỏng" hơn là "rất đúng trong yêu cầu hiện nay, rất đúng với nhu cầu".
Ông Tuấn ví von, việc này cũng như là các mảnh ruộng đang khô hạn và Chính phủ đang cố gắng tạo nguồn nước để tưới. Bởi hoạt động kinh doanh thì cần vốn. Vốn với doanh nghiệp cũng như trồng trọt cần nước vậy. Khi bị thiếu nước thì rõ ràng nông nghiệp không thể phát triển, giống như doanh nghiệp thiếu vốn thì chắc chắn gặp khó khăn.
Theo ông Tuấn, nếu nhìn trong cả năm 2022 vừa rồi, riêng dòng vốn đối với doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn.
Trước hết là dòng vốn từ trái phiếu là khó. Sau một thời gian bùng nổ, một phần nào đấy cũng do kiểm soát chưa tốt nên chúng ta điều chỉnh lại, dẫn đến tình trạng đóng băng và hầu như huy động vốn dài hạn từ trái phiếu rất khó.
Trong khi ấy, những khó khăn dồn dập khác từ thị trường thế giới cũng ập đến như: Đơn hàng giảm, nhiều hoạt động kinh doanh khó khăn, doanh nghiệp đối mặt với nhiều khó khăn, vay vốn ngân hàng thì lãi suất rất cao...
Bên cạnh đó, trong giai đoạn vừa rồi, lãi suất có giai đoạn mười mấy %, mà đối với hoạt động kinh doanh bình thường thì mười mấy % đã khó chứ chưa nói đến tích luỹ và phát triển.
"Chính vì thế, giải pháp hiện tại ưu tiên tập trung vào chính sách tiền tệ theo hướng kéo mặt bằng lãi suất xuống và tăng cung tiền để làm sao tạo thuận lợi cho doanh nghiệp vay vốn theo chúng tôi là chính sách rất trúng và rất cần thiết", ông Đậu Anh Tuấn nhấn mạnh.
Theo ông Tuấn: Ngân hàng Nhà nước đã nhiều lần giảm lãi suất điều hành. Trong nhiều cuộc họp từ đầu năm đến nay, người đứng đầu Chính phủ liên tục thúc ép, liên tục đưa ra thông điệp về việc cố gắng giảm mặt bằng lãi suất xuống. Cái này hoàn toàn đúng với nhu cầu doanh nghiệp. Bởi vì có vốn thì những doanh nghiệp xuất khẩu mới thuận lợi.
Hiện nay, đối với nhiều doanh nghiệp xuất khẩu ở nhiều ngành hàng, việc có vốn để quay nhanh dòng hàng, để thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh, rồi mở mang mặt bằng, mở mang hoạt động kinh doanh cũng cần vốn.
Cho nên tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận vốn với chi phí hợp lí, rẻ hơn là một quyết sách đúng đắn.
Hiện tại nhiều doanh nghiệp cho biết vay được vốn rẻ vẫn đang rất khó khăn. Cho nên làm sao những chính sách tiền tệ như thế này phải đi nhanh được vào thực tiễn và làm sao doanh nghiệp có thể vay vốn được với lãi suất hợp lí để thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh.
Bởi vì những con số kinh tế trong 6 tháng đầu năm cho thấy bức tranh về kinh doanh, về doanh nghiệp rất đáng lo ngại. Nếu doanh nghiệp không duy trì được hoạt động, không tăng trưởng được thì chắc chắn ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế - một mục tiêu quan trọng, chắc chắn ảnh hưởng đến lao động, việc làm, chắc chắn ảnh hưởng đến thu ngân sách và về dài hạn thì ảnh hưởng đến sự tồn tại của doanh nghiệp. Con số doanh nghiệp rời khỏi thị trường trong 6 tháng đầu năm rất cao cũng là một tín hiệu cho thấy điều ấy.
"Cho nên chính sách này, dưới góc độ chúng tôi nhìn nhận, là rất quan trọng, cốt lõi và rất cần thiết trong giai đoạn này", ông Đậu Anh Tuấn khẳng định./.