In bài viết

TOÀN VĂN: Tờ trình Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công an nhân dân

09:08 - 13/03/2023

(Chinhphu.vn) - Xuất phát từ sự cần thiết ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công an nhân dân; thể chế hóa quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, Bộ Công an đã hoàn thành dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công an nhân dân (CAND) để lấy ý kiến đóng góp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Cổng TTĐT Chính phủ giới thiệu nội dung tờ trình dự thảo.

Căn cứ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), Bộ Công an kính trình Chính phủ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công an nhân dân như sau:

I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT

Luật Công an nhân dân được Quốc hội thông qua ngày 20/11/2018 (Luật CAND), có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2019 (trừ các quy định về cấp bậc hàm cao nhất là cấp Tướng; phong, thăng, giáng, tước cấp bậc hàm cấp Tướng; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, giáng chức các chức vụ có cấp bậc hàm cao nhất là cấp Tướng có hiệu lực thi hành từ ngày 11/01/2019). 

Qua 03 năm triển khai thực hiện, Luật CAND đã tạo cơ sở pháp lý tương đối đầy đủ, toàn diện để lực lượng CAND thực hiện chức năng, nhiệm vụ tham mưu cho Đảng, Nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật; thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, góp phần giữ vững an ninh, trật tự của đất nước. 

Tổ chức bộ máy các cấp công an đã được đổi mới căn bản, toàn diện và sắp xếp tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; vị trí việc làm của sĩ quan, hạ sĩ quan, công nhân công an đã được xác định rõ ràng, cụ thể; góp phần quan trọng trong việc "xây dựng CAND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, tạo tiền đề vững chắc phấn đấu năm 2030 xây dựng CAND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại". 

Việc thực hiện chế độ, chính sách đối với CAND và các điều kiện bảo đảm cho hoạt động công tác Công an được nâng cao; phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc đã có những bước phát triển sâu rộng, vững chắc.

Bên cạnh những thuận lợi và kết quả đạt được, quá trình thực hiện Luật CAND đã bộc lộ một số vướng mắc, bất cập sau:

Thứ nhất, hạn tuổi phục vụ cao nhất của sĩ quan, hạ sĩ quan, công nhân công an chưa phù hợp với quy định về tăng tuổi nghỉ hưu của Bộ luật Lao động

Hạn tuổi phục vụ cao nhất đối với sĩ quan, hạ sĩ quan, công nhân công an được quy định trên cơ sở điều kiện, môi trường, tính chất công việc và đặc thù về tổ chức bộ máy của lực lượng CAND, đồng thời luôn đảm bảo tương quan với tuổi nghỉ hưu của người lao động quy định tại Bộ luật Lao động. 

Tuy nhiên, theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2019 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021) thì tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường được điều chỉnh theo lộ trình cho đến khi đủ 62 tuổi đối với nam vào năm 2028 và đủ 60 tuổi đối với nữ vào năm 2035. Do đó, khoảng cách về tuổi nghỉ hưu giữa cán bộ, chiến sĩ CAND với người lao động tăng lên. 

Bộ luật Lao động được coi là "Luật gốc" về tuổi nghỉ hưu của người lao động, vì vậy, khi tuổi nghỉ hưu của người lao động nói chung thay đổi thì cũng cần phải sửa đổi quy định hiện hành về hạn tuổi phục vụ cao nhất của sĩ quan, hạ sĩ quan, công nhân công an tại Luật CAND và Nghị định số 49/2019/NĐ-CP ngày 06/6/2019 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành một số điều của Luật CAND (Nghị định số 49/2019/NĐ-CP) cho phù hợp.

Bên cạnh đó, thực tiễn thực hiện nhiệm vụ cho thấy, trong lực lượng CAND có nhiều cán bộ thời gian công tác lâu năm, nhiều kinh nghiệm thực tiễn, thông thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, phức tạp, trọng điểm về an ninh, trật tự; được nhân dân, cấp ủy, chính quyền các cấp tín nhiệm cao về phẩm chất đạo đức, trình độ, năng lực trong thực tiễn bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; đang trực tiếp chỉ đạo giải quyết, điều tra, xử lý những vụ việc, vụ án, chuyên án đặc biệt lớn, phức tạp, đấu tranh với tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, tham nhũng, ma túy, tội phạm xuyên quốc gia… nếu được kéo dài hạn tuổi sẽ bảo đảm việc chỉ đạo giải quyết, điều tra, xác minh vụ án, chuyên án liên thông, liên tục cho đến khi kết thúc. 

Mặt khác, khoản 2 Điều 13 Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam quy định về kéo dài tuổi phục vụ tại ngũ đối với sĩ quan Quân đội nhân dân trong trường hợp đặc biệt nhưng Luật CAND chưa quy định về nội dung này. Vì vậy, việc bổ sung quy định về kéo dài hạn tuổi phục vụ cao nhất đối với sĩ quan CAND trong trường hợp đặc biệt là cần thiết và phù hợp.

Thứ hai, về thăng cấp bậc hàm cấp Tướng trước thời hạn đối với sĩ quan Công an nhân dân có thành tích đặc biệt xuất sắc đạt được trong chiến đấu và công tác chưa cụ thể nên khó thực hiện

Khoản 1 Điều 23 Luật CAND quy định: "Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ CAND lập thành tích đặc biệt xuất sắc trong bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, xây dựng lực lượng CAND, nghiên cứu khoa học, công tác, học tập mà cấp bậc hàm hiện tại thấp hơn cấp bậc hàm cao nhất đối với chức vụ, chức danh sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ đang đảm nhiệm thì được xét thăng cấp bậc hàm trước thời hạn". Khoản 3 Điều 23 Luật CAND quy định: "Chủ tịch nước quyết định việc thăng cấp bậc hàm trước thời hạn và thăng cấp bậc hàm vượt bậc đối với cấp bậc hàm cấp Tướng". 

Thực hiện quy định nêu trên, Bộ Công an đã ban hành văn bản quy định cụ thể về thăng cấp bậc hàm trước thời hạn đối với sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ CAND lập thành tích đặc biệt xuất sắc có cấp bậc hàm từ Đại tá trở xuống; tuy nhiên, đối với cấp Tướng thì Luật CAND và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa quy định nên khó triển khai thực hiện trên thực tế.

Thứ ba, về cấp bậc hàm cao nhất đối với chức vụ, chức danh của sĩ quan Công an nhân dân chưa phù hợp với thực tiễn

Hiện nay, Luật CAND quy định 199 vị trí có cấp bậc hàm cao nhất là cấp Tướng. Triển khai thi hành Luật CAND và các văn bản liên quan, tổ chức bộ máy các cấp công an đã được đổi mới căn bản, toàn diện và sắp xếp tinh gọn theo hướng giảm đầu mối, đơn vị Công an các cấp. 

Trong đó, hầu hết Thủ trưởng các đơn vị cấp Cục và tương đương cấp Cục trực thuộc Bộ có cấp bậc hàm cao nhất là Trung tướng, Thiếu tướng nhưng vẫn còn Thủ trưởng của một số đơn vị tương đương cấp Cục chưa được quy định có trần cấp bậc hàm cao nhất là cấp Tướng tạo ra sự thiếu đồng bộ, thống nhất trong quy định về cấp bậc hàm đối với các chức vụ, chức danh tương đương. 

Ví dụ: Theo quy định tại Luật CAND và văn bản quy định chi tiết thi hành thì Thủ trưởng của một số trường, học viện trong CAND có cấp bậc hàm cấp Trung tướng như: Giám đốc Học viện An ninh nhân dân, Giám đốc Học viện Cảnh sát nhân dân, Giám đốc Học viện Chính trị Công an nhân dân… nhưng Hiệu trưởng trường Đại học Cảnh sát nhân dân, Hiệu trưởng trường Đại học An ninh nhân dân chỉ có cấp bậc hàm cao nhất là Đại tá; trong khi đó, đây là các đơn vị trực thuộc Bộ, là 02 trường trọng điểm của lực lượng CAND, đào tạo nguồn nhân lực cho khu vực phía nam là chưa phù hợp với vị trí, chức năng, nhiệm vụ của hai đơn vị này; hoặc theo quy định về tiêu chuẩn, điều kiện, nhiệm vụ, quyền hạn, quy trình bổ nhiệm, chính sách, chế độ đối với chức danh Trợ lý, Thư ký thì đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị có 02 Trợ lý và được hưởng lương, chính sách, chế độ tương đương Tổng cục trưởng, tuy nhiên, hiện nay, mới chỉ có 01 đồng chí Trợ lý Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an được quy định có cấp bậc hàm cao nhất là Thiếu tướng...

Ngoài ra, theo quy định tại khoản 4 Điều 25 Luật CAND, Trưởng phòng và tương đương ở đơn vị trực thuộc Bộ có chức năng, nhiệm vụ trực tiếp chiến đấu, Trưởng phòng nghiệp vụ, Trưởng Công an quận thuộc Công an thành phố Hà Nội, Công an Thành phố Hồ Chí Minh được thăng cấp bậc hàm Đại tá, tuy nhiên, đối với Trung đoàn Cảnh sát cơ động, đặc nhiệm, không quân, bảo vệ mục tiêu thuộc Bộ Tư lệnh Cảnh sát Cơ động, Bộ Tư lệnh Cảnh vệ, Công an thành phố Hà Nội, Công an Thành phố Hồ Chí Minh là các đơn vị vũ trang tập trung, quân số đông, tương đương cấp Phòng, trực tiếp chiến đấu bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội nhưng mới được quy định có cấp bậc hàm cao nhất là Thượng tá là chưa phù hợp với vị trí, tính chất, chức năng, nhiệm vụ quan trọng của các đơn vị này.

Ngày 09/12/2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 1111/NQ-UBTVQH14 về sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã và thành lập thành phố Thủ Đức thuộc Thành phố Hồ Chí Minh (trong tương lai có thể thành lập thêm đơn vị hành chính đặc biệt như thành phố Thủ Đức).

Đây là những đơn vị hành chính có địa bàn lớn hơn cấp quận nhưng điểm e khoản 1 Điều 25 Luật CAND chỉ quy định Trưởng Công an thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương có cấp bậc hàm cao nhất là Thượng tá là chưa phù hợp với tính chất địa bàn, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị này.

Từ những vấn đề trên cho thấy, việc xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật CAND để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật, đáp ứng yêu cầu bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội là cần thiết.

II. MỤC ĐÍCH, QUAN ĐIỂM XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT

1. Mục đích

- Thể chế hóa quan điểm chỉ đạo: "Xây dựng CAND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, tạo tiền đề vững chắc phấn đấu đến năm 2030 xây dựng CAND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại" tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và Nghị quyết về đẩy mạnh xây dựng lực lượng Công an nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới;

- Thể chế hóa chỉ đạo điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu tại Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23-5-2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội: "Từ năm 2021, thực hiện điều chỉnh tuổi nghỉ hưu theo mục tiêu tăng tuổi nghỉ hưu chung, thu hẹp dần khoảng cách về giới trong quy định tuổi nghỉ hưu; đối với những ngành nghề đặc biệt, người lao động được quyền nghỉ hưu sớm, hoặc muộn hơn 5 tuổi so với tuổi nghỉ hưu chung";

- Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về CAND theo Hiến pháp năm 2013, bảo đảm thống nhất trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật; hoàn thiện cơ sở pháp lý về chế độ, chính sách đối với lực lượng CAND;

- Bảo đảm thống nhất, đồng bộ với quy định về tăng tuổi nghỉ hưu của người lao động; khắc phục một số khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện Luật CAND liên quan đến thăng cấp bậc hàm cấp Tướng trước thời hạn đối với sĩ quan CAND có thành tích đặc biệt xuất sắc đạt được trong chiến đấu và công tác; bổ sung số lượng, vị trí có cấp bậc hàm cấp Tướng trong CAND phù hợp với quy định của Đảng và yêu cầu công tác.

2. Quan điểm xây dựng dự án Luật

- Bảo đảm lực lượng CAND đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện về mọi mặt của Đảng, sự thống lĩnh của Chủ tịch nước, sự quản lý của Chính phủ và sự chỉ huy, quản lý trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Công an.

- Việc xây dựng dự án Luật phải dựa trên cơ sở tổng kết thực tiễn thi hành Luật CAND và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, trong đó tập trung vào quy định về hạn tuổi phục vụ của sĩ quan, hạ sĩ quan, công nhân công an, thăng cấp bậc hàm cấp Tướng trước thời hạn, cấp bậc hàm của chức vụ, chức danh trong CAND; kế thừa các quy định còn phù hợp, khắc phục khó khăn, vướng mắc để đáp ứng yêu cầu bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo.

- Bảo đảm tính hợp hiến, thống nhất, đồng bộ trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.

III. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT

Thực hiện quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Công an đã tiến hành các công việc xây dựng dự án Luật như sau:

1. Tổng kết thi hành Luật Công an nhân dân năm 2018.

2. Tổng hợp các văn bản của Đảng, Nhà nước và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan.

3. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến sửa đổi, bổ sung Luật CAND.

4. Xây dựng các dự thảo văn bản thuộc hồ sơ dự án Luật.

5. Tổ chức khảo sát lấy ý kiến tại Công an đơn vị, địa phương.

6. Lấy ý kiến tham gia của các bộ, ngành, chuyên gia pháp luật, nhà khoa học đối với dự án Luật.

7. Đề nghị Bộ Tư pháp thẩm định dự án Luật.

8. Trình thông qua dự án Luật.

Đến nay, dự án Luật đã được chỉnh lý hoàn chỉnh, đủ điều kiện để trình cấp có thẩm quyền xem xét cho ý kiến và thông qua.

IV. BỐ CỤC, NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA DỰ ÁN LUẬT

1. Bố cục của Luật

Dự thảo Luật gồm 02 Điều, gồm:

- Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật CAND:

+ Sửa đổi, bổ sung khoản 4 Điều 22;

+ Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 23;

+ Sửa đổi, bổ sung Điều 25, gồm: Các điểm b, d và e khoản 1; khoản 2 và khoản 4;

+ Sửa đổi, bổ sung Điều 30, gồm: Tiêu đề; khoản 1; khoản 3; khoản 4;

+ Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 42.

- Điều 2. Hiệu lực thi hành.

2. Nội dung cơ bản của Luật

Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật CAND

a) Sửa đổi, bổ sung khoản 4 Điều 22:

- Nội dung:

Sửa đổi, bổ sung theo hướng: Quy định sĩ quan CAND được xét thăng cấp bậc hàm từ Đại tá lên Thiếu tướng phải còn ít nhất đủ 03 năm công tác. Trường hợp không đủ 03 năm công tác do Chủ tịch nước quyết định.

- Căn cứ sửa đổi, bổ sung:

Theo quy định tại khoản 4 Điều 22 Luật CAND thì tuổi để xét thăng cấp bậc hàm từ Đại tá lên Thiếu tướng phải không quá 57 tuổi; trong khi đó, hạn tuổi phục vụ cao nhất của cấp Tướng là 60 tuổi; như vậy, sĩ quan được thăng cấp bậc hàm từ Đại tá lên Thiếu tướng phải còn ít nhất đủ 03 năm công tác.

Do đó, nếu tăng hạn tuổi phục vụ cao nhất của sĩ quan CAND thì cũng phải sửa đổi, bổ sung quy định nêu trên theo hướng: Sĩ quan được xét thăng cấp bậc hàm từ Đại tá lên Thiếu tướng phải còn ít nhất đủ 03 năm công tác, vì trong trường hợp tăng hạn tuổi phục vụ cao nhất của sĩ quan CAND theo lộ trình (03 tháng/năm đối với nam, 04 tháng/năm đối với nữ) thì không thể quy định cố định độ tuổi tối đa để xét thăng cấp bậc hàm từ Đại tá lên Thiếu tướng.

b) Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 23:

- Nội dung: 

Bổ sung quy định: Chính phủ quy định cụ thể tiêu chí, tiêu chuẩn thăng cấp bậc hàm cấp Tướng trước thời hạn đối với sĩ quan CAND có thành tích đặc biệt xuất sắc đạt được trong chiến đấu và công tác. Việc bổ sung nội dung này nhằm xác định cụ thể tiêu chí, tiêu chuẩn thành tích đặc biệt xuất sắc đạt được trong chiến đấu và công tác để làm căn cứ đề nghị Chủ tịch nước xem xét, quyết định thăng cấp bậc hàm cấp Tướng theo quy định tại khoản 1 Điều 26 Luật CAND.

- Căn cứ đề nghị sửa đổi, bổ sung:

Khoản 1 Điều 23 Luật CAND quy định: "Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ CAND lập thành tích đặc biệt xuất sắc trong bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, xây dựng lực lượng CAND, nghiên cứu khoa học, công tác, học tập mà cấp bậc hàm hiện tại thấp hơn cấp bậc hàm cao nhất đối với chức vụ, chức danh sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ đang đảm nhiệm thì được xét thăng cấp bậc hàm trước thời hạn". Khoản 3 Điều 23 Luật CAND quy định: "Chủ tịch nước quyết định việc thăng cấp bậc hàm trước thời hạn và thăng cấp bậc hàm vượt bậc đối với cấp bậc hàm cấp Tướng".

Thực hiện quy định nêu trên, Bộ Công an đã ban hành văn bản quy định cụ thể về thăng cấp bậc hàm trước thời hạn đối với sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ CAND lập thành tích đặc biệt xuất sắc có cấp bậc hàm từ Đại tá trở xuống; tuy nhiên, đối với cấp Tướng thì Luật CAND và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa quy định nên khó triển khai thực hiện trên thực tế. Vì vậy, việc cụ thể hóa quy định nêu trên của Luật CAND là cần thiết.

c) Sửa đổi, bổ sung các điểm b, d, e khoản 1, khoản 2 và khoản 4 Điều 25:

Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung điểm b, d khoản 1

- Nội dung:

Bổ sung 06 vị trí có cấp bậc hàm cao nhất là cấp Tướng trong CAND, gồm: 01 vị trí có cấp bậc hàm cao nhất là Thượng tướng và 05 vị trí có cấp bậc hàm cao nhất là Thiếu tướng; quy định Trưởng Công an thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, Trung đoàn trưởng có cấp bậc hàm cao nhất là Đại tá.

- Căn cứ đề nghị sửa đổi, bổ sung:

Bổ sung 01 vị trí có cấp bậc hàm cao nhất là Thượng tướng đối với sĩ quan CAND biệt phái được phê chuẩn chức vụ Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội; vì hiện nay, Bộ Công an có một đồng chí Thứ trưởng biệt phái được phê chuẩn chức vụ này. Theo đó, bổ sung điểm b khoản 1 Điều 25 theo hướng: Sĩ quan CAND biệt phái được phê chuẩn chức vụ Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội có cấp bậc hàm Thượng tướng.

Bổ sung 05 vị trí có cấp bậc hàm cao nhất là Thiếu tướng, theo đó, sửa đổi, bổ sung quy định tại điểm d khoản 1 Điều 25 theo hướng tăng từ 157 vị trí lên 162 vị trí có cấp bậc hàm cao nhất là Thiếu tướng. Các vị trí cụ thể quy định tại Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Thứ hai, sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 25

Bổ sung quy định Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định cấp bậc hàm cấp Tướng đối với đơn vị được thành lập mới nhằm bảo đảm tính linh hoạt khi có sự thay đổi về cơ cấu tổ chức của Bộ Công an và bảo đảm thống nhất với Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam.

Thứ ba, bỏ quy định Trung đoàn trưởng, Trưởng Công an thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương có cấp bậc hàm cao nhất là Thượng tá tại điểm e khoản 1; đồng thời, sửa đổi, bổ sung khoản 4 Điều 25 như sau:

 - Nội dung:

 Sửa đổi, bổ sung khoản 4 Điều 25 theo hướng quy định Trung đoàn trưởng, Trưởng Công an thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương có cấp bậc hàm cao nhất là Đại tá.

- Căn cứ sửa đổi, bổ sung:

Theo quy định tại khoản 4 Điều 25 Luật CAND, Trưởng phòng và tương đương ở đơn vị trực thuộc Bộ có chức năng, nhiệm vụ trực tiếp chiến đấu, Trưởng phòng nghiệp vụ, Trưởng Công an quận thuộc Công an thành phố Hà Nội, Công an Thành phố Hồ Chí Minh được thăng cấp bậc hàm Đại tá, tuy nhiên, đối với Trung đoàn Cảnh sát cơ động, đặc nhiệm, không quân, bảo vệ mục tiêu thuộc Bộ Tư lệnh Cảnh sát Cơ động, Bộ Tư lệnh Cảnh vệ, Công an thành phố Hà Nội, Công an Thành phố Hồ Chí Minh là các đơn vị vũ trang tập trung, quân số đông, tương đương cấp phòng, trực tiếp chiến đấu bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội nhưng mới được quy định có cấp bậc hàm cao nhất là Thượng tá (điểm e khoản 1 Điều 25) là chưa phù hợp với vị trí, tính chất, chức năng, nhiệm vụ quan trọng của các đơn vị này.

Ngày 09/12/2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 1111/NQ-UBTVQH14 về sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã và thành lập thành phố Thủ Đức thuộc Thành phố Hồ Chí Minh (trong tương lai có thể thành lập thêm đơn vị hành chính đặc biệt như thành phố Thủ Đức). Đây là những đơn vị hành chính có quy mô lớn hơn cấp quận nhưng điểm e khoản 1 Điều 25 Luật CAND chỉ quy định Trưởng Công an thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương có cấp bậc hàm cao nhất là Thượng tá là chưa phù hợp với tính chất địa bàn, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị này.

d) Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 30:

- Nội dung:

Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 30 về hạn tuổi phục vụ của sĩ quan, hạ sĩ quan CAND theo hướng: Bổ sung quy định và tăng hạn tuổi phục vụ cao nhất của công nhân công an (nam tăng 02 tuổi, nữ tăng 05 tuổi); tăng 02 tuổi của sĩ quan, hạ sĩ quan; riêng nữ sĩ quan có cấp bậc hàm Đại tá tăng 05 tuổi, nữ sĩ quan có cấp bậc hàm Thượng tá tăng 03 tuổi; nữ sĩ quan cấp Tướng thì vẫn giữ nguyên 60 tuổi như hiện hành; bổ sung quy định kéo dài hạn tuổi phục vụ cao nhất đối với sĩ quan CAND trong trường hợp đặc biệt.

Thời gian tăng tuổi theo lộ trình: Mỗi năm tăng 03 tháng đối với nam và 04 tháng đối với nữ. Riêng sĩ quan, hạ sĩ quan có hạn tuổi phục vụ cao nhất dưới 60 tuổi đối với nam, dưới 55 tuổi đối với nữ thì tăng ngay 02 tuổi, không theo lộ trình nêu trên.

Thời điểm tăng hạn tuổi phục vụ cao nhất bắt đầu từ năm 2021 nhưng  không áp dụng đối với trường hợp đã nghỉ công tác trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành. Giao Chính phủ quy định cụ thể lộ trình tăng hạn tuổi phục vụ cao nhất của sĩ quan, hạ sĩ quan, công nhân công an cho phù hợp với quy định của Bộ luật Lao động.

- Căn cứ đề nghị sửa đổi, bổ sung:

Thứ nhất, bổ sung quy định hạn tuổi phục vụ cao nhất của công nhân công an

Khoản 6 Điều 2 Luật CAND quy định: Công nhân công an là những người được tuyển vào làm việc trong CAND mà không thuộc diện được phong cấp bậc hàm sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ nhưng hạn tuổi phục vụ cao nhất của công nhân công an lại được quy định tại Điều 11 Nghị định số 49/2019/NĐ-CP.

Vì vậy, để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật thì cần nâng quy định về hạn tuổi phục vụ cao nhất của công nhân công an từ Nghị định số 49/2019/NĐ-CP thành quy định trong Luật CAND.

Thứ hai, về hạn tuổi phục vụ cao nhất của sĩ quan, hạ sĩ quan, công nhân công an: Tăng 02 tuổi của sĩ quan, hạ sĩ quan so với hiện nay; riêng nữ sĩ quan CAND có cấp bậc hàm Đại tá tăng 05 tuổi; nữ sĩ quan CAND có cấp bậc hàm Thượng tá tăng 03 tuổi; nữ sĩ quan cấp Tướng thì vẫn giữ nguyên 60 tuổi như hiện hành; công nhân công an, nam tăng 02 tuổi, nữ tăng 05 tuổi.

- Qua các thời kỳ khác nhau, hạn tuổi phục vụ cao nhất của sĩ quan, hạ sĩ quan CAND có cấp bậc hàm Đại tá, cấp Tướng được quy định bằng tuổi nghỉ hưu của người lao động (nam: 60 tuổi, nữ: 55 tuổi), đối với cán bộ, chiến sĩ có cấp bậc hàm từ Thượng tá trở xuống thì thấp hơn so với tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện bình thường nhưng cơ bản bằng tuổi nghỉ hưu đối với người lao động làm công việc nặng nhọc, nguy hiểm, độc hại (nam: 55 tuổi; nữ: 53 tuổi), vì lực lượng CAND là lực lượng vũ trang, phần lớn cán bộ, chiến sĩ được bố trí tại đơn vị chiến đấu, trực tiếp chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu nên đòi hỏi phải có sức khỏe tốt và không thể đáp ứng khi độ tuổi quá cao. Do đó, tương quan giữa hạn tuổi phục vụ cao nhất của sĩ quan, hạ sĩ quan CAND thấp hơn ít nhất 02 tuổi so với tuổi nghỉ hưu của người lao động.

Tuy nhiên, Bộ luật Lao động năm 2019 quy định tăng đều 02 tuổi đối với nam, 05 tuổi đối với nữ so với Bộ luật Lao động năm 2012. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa khoảng cách về tuổi nghỉ hưu của sĩ quan, hạ sĩ quan Công an nhân dân so với người lao động, thực tiễn bố trí, sử dụng sĩ quan, hạ sĩ quan, người lao động trong Công an nhân dân, tính chất đặc thù của lực lượng vũ trang, Bộ Công an đề nghị tăng 02 tuổi đối với sĩ quan, hạ sĩ quan. 

Riêng nữ sĩ quan có cấp bậc hàm Đại tá thì tăng 05 tuổi, từ 55 tuổi lên 60 tuổi theo mức độ tăng tuổi nghỉ hưu đối với lao động nữ của Bộ luật Lao động, vì đây là sĩ quan cao cấp, chủ yếu được bố trí làm công tác quản lý, giữ chức vụ lãnh đạo cấp Cục đòi hỏi phải có nhiều năm kinh nghiệm thực tiễn, chuyên môn sâu để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.

Nữ sĩ quan có cấp bậc hàm Thượng tá thì tăng 03 tuổi, từ 55 tuổi lên 58 tuổi, vì đây là các sĩ quan này được bố trí làm công tác kiểm tra, hướng dẫn, quản lý đơn vị cấp phòng, thường xuyên trực tiếp thực hiện nhiệm vụ chiến đấu, phục vụ chiến đấu trong môi trường nặng nhọc, độc hại.

- Đối với nữ sĩ quan cấp Tướng thì đề nghị vẫn giữ như quy định hiện nay (60 tuổi), vì đã phù hợp với quy định của Bộ luật Lao động năm 2019 về tuổi nghỉ hưu của lao động nữ (60 tuổi).

- Đối với công nhân Công an, đề nghị tăng hạn tuổi phục vụ cao nhất cho tương đồng với mức độ tăng tuổi của Bộ luật Lao động (nam: 62 tuổi, nữ: 60 tuổi); vì tính chất lao động của công nhân công an cơ bản như người lao động trong điều kiện bình thường.

Thứ ba, về lộ trình tăng tuổi

Theo quy định của Bộ luật Lao động thì lộ trình tăng tuổi nghỉ hưu đối với người lao động là: Mỗi năm tăng 03 tháng đối với nam, 04 tháng đối với nữ; do đó, Bộ Công an đề nghị lộ trình tăng tuổi đối với sĩ quan có hạn tuổi phục vụ cao nhất từ 60 tuổi trở lên đối với nam, từ 55 tuổi trở lên đối với nữ (trừ nữ sĩ quan cấp Tướng), công nhân công an thực hiện theo quy định này của Bộ luật Lao động.

Riêng đối với sĩ quan, hạ sĩ quan có hạn tuổi phục vụ cao nhất dưới 60 tuổi đối với nam, dưới 55 tuổi đối với nữ thì tăng ngay 02 tuổi, không theo lộ trình nêu trên, vì: Hiện nay, hạn tuổi phục vụ cao nhất của cán bộ, chiến sĩ có cấp bậc hàm Trung tá, Thiếu tá, Cấp úy và Hạ sĩ quan thấp hơn nhiều so với mức hạn tuổi phục vụ cao nhất trong CAND, quy định của Bộ luật Lao động (Hạ sĩ quan: 45; Cấp úy 53; Thiếu tá, Trung tá: Nam 55, nữ 53); do đó, để thu hẹp khoảng cách về hạn tuổi phục vụ cao nhất giữa cán bộ, chiến sĩ có cấp bậc hàm nêu trên so với cán bộ, chiến sĩ có cấp bậc hàm cao hơn, Bộ Công an đề nghị áp dụng tăng ngay 02 tuổi mà không theo lộ trình. Việc áp dụng quy định này sẽ bảo đảm sự ổn định, tạo điều kiện thuận lợi trong công tác quy hoạch, đào tạo, luân chuyển, điều động, bổ nhiệm cán bộ.

đ) Sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 30:

- Nội dung:

Nâng tuổi được kéo dài hạn tuổi phục vụ; bổ sung quy định kéo dài hạn tuổi phục vụ cao nhất đối với sĩ quan Công an nhân dân trong trường hợp đặc biệt.

- Căn cứ sửa đổi, bổ sung:

Thứ nhất, về nâng tuổi được kéo dài hạn tuổi phục vụ

Đây là điểm sửa đổi về mặt kỹ thuật, vì theo quy định của Luật CAND năm 2018, trường hợp đơn vị Công an có nhu cầu thì sĩ quan CAND có thể được kéo dài tuổi phục vụ nhưng không quá 60 tuổi đối với nam, 55 tuổi đối với nữ (hạn tuổi phục vụ cao nhất theo quy định) nhưng theo quy định của Luật này thì hạn tuổi phục vụ cao nhất được nâng từ 60 tuổi lên 62 tuổi đối với nam, từ 55 tuổi lên 60 tuổi đối với nữ nên cần sửa đổi quy định này cho phù hợp.

Thứ hai, bổ sung quy định kéo dài hạn tuổi phục vụ cao nhất đối với sĩ quan Công an nhân dân trong trường hợp đặc biệt.

Thực tiễn thực hiện nhiệm vụ của lực lượng CAND cho thấy, có nhiều cán bộ thời gian công tác lâu năm, nhiều kinh nghiệm thực tiễn, thông thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, phức tạp, trọng điểm về an ninh, trật tự; được nhân dân, cấp ủy, chính quyền các cấp tín nhiệm cao về phẩm chất đạo đức, trình độ, năng lực; đang trực tiếp chỉ đạo giải quyết, điều tra, xử lý những vụ việc, vụ án, chuyên án đặc biệt lớn, phức tạp, đấu tranh với tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, tham nhũng, ma túy, tội phạm xuyên quốc gia… nếu được kéo dài hạn tuổi sẽ bảo đảm việc chỉ đạo giải quyết, điều tra, xác minh vụ án, chuyên án liên thông, xuyên suốt cho đến khi kết thúc. 

Mặt khác, hiện nay, khoản 2 Điều 13 Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam quy định về kéo dài tuổi phục vụ tại ngũ đối với sĩ quan Quân đội nhân dân trong trường hợp đặc biệt. Vì vậy, việc bổ sung quy định về kéo dài hạn tuổi phục vụ cao nhất đối với sĩ quan CAND trong trường hợp đặc biệt là cần thiết và phù hợp.

e) Sửa đổi khoản 4 Điều 30 như sau:

- Nội dung:

Nâng tuổi được kéo dài hạn tuổi phục vụ đối với sĩ quan CAND là giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, chuyên gia cao cấp từ 60 tuổi lên 62 tuổi đối với nam; từ 55 tuổi lên 60 tuổi đối với nữ.

- Căn cứ sửa đổi:

Đây là điểm sửa đổi về mặt kỹ thuật, vì theo quy định của Luật CAND năm 2018 thì sĩ quan CAND là giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, chuyên gia cao cấp có thể được kéo dài tuổi phục vụ hơn hạn tuổi phục vụ cao nhất (60 tuổi đối với nam, hơn 55 tuổi đối với nữ) nhưng theo quy định của Luật này thì hạn tuổi phục vụ cao nhất được nâng từ 60 tuổi lên 62 tuổi đối với nam, từ 55 tuổi lên 60 tuổi đối với nữ nên cần sửa đổi quy định này cho phù hợp.

g) Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 42:

- Nội dung:

Chính phủ quy định chế độ, chính sách của công nhân công an.

- Căn cứ sửa đổi, bổ sung:

Hiện nay, chế độ, chính sách đối với công nhân công an đang thực hiện theo quy định tại Nghị định số 49/2019/NĐ-CP; Nghị định số 34/2012/NĐ-CP ngày 15/4/2012 về chế độ phụ cấp công vụ; Nghị định số 116/2010/NĐ-CP ngày 24/12/2010 về chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức và người hưởng lương trong lực lượng vũ trang công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang… Do đó, việc giao Chính phủ quy định cụ thể chế độ, chính sách đối với công nhân công an nhằm bảo đảm phù hợp với quy định hiện hành trong Luật CAND là phù hợp.

Điều 2. Hiệu lực thi hành

Luật này có hiệu lực thi hành kể từ ngày……. tháng……. năm……..

Trên đây là Tờ trình về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công an nhân dân, Bộ Công an xin kính trình Chính phủ xem xét, cho ý kiến./.

Toàn văn dự thảo Luật được đăng trên Cổng Thông tin điện tử Bộ Công an để lấy ý kiến đóng góp trong thời gian 60 ngày. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể xem toàn văn dự thảo và tham gia đóng góp ý kiến TẠI ĐÂY.

TOÀN VĂN: Tờ trình Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công an nhân dân