Trước đó trình bày báo cáo tiếp thu, giải trình, chỉnh lý và hoàn thiện dự thảo Luật, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh cho biết, về thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính (Điều 6), tiếp thu ý kiến ĐBQH, dự thảo Luật được chỉnh sửa theo hướng chỉ tăng thời hiệu đối với mỗi loại vi phạm trong các lĩnh vực hiện hành lên một năm (từ 01 năm lên 02 năm và từ 02 năm lên 03 năm) trong trường hợp xử phạt đối với hồ sơ do cơ quan tiến hành tố tụng chuyển đến, thay vì quy định chung là 03 năm như dự thảo Luật trình Quốc hội, nhằm giải quyết triệt để tình trạng hết thời hiệu sau quá trình tố tụng nhưng vẫn bảo đảm chặt chẽ về thời gian và tránh tùy tiện trong áp dụng.
Về việc gửi quyết định xử phạt vi phạm hành chính (Điều 70), một số đại biểu Quốc hội cho rằng dự thảo Luật đã giao Chính phủ quy định chi tiết Điều 70, không cần thiết phải quy định quá chi tiết ở Luật, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, dự thảo Luật dự kiến không quy định cụ thể các trường hợp quyết định xử phạt vi phạm hành chính được coi là đã giao cho cá nhân, tổ chức bị xử phạt nhằm phù hợp với tư duy đổi mới hoạt động lập pháp theo hướng luật chỉ quy định những vấn đề thuộc thẩm quyền của Quốc hội.
Về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính không lập biên bản (Điều 56), trước ý kiến một số đại biểu Quốc hội đề nghị cân nhắc việc mở rộng xử phạt không lập biên bản do lo ngại ảnh hưởng đến quyền khiếu nại, tính minh bạch, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh cho biết, trên cơ sở ý kiến của đại biểu Quốc hội, dự thảo Luật đã được chỉnh sửa theo hướng: Chỉ nâng mức tiền tối đa áp dụng thủ tục xử phạt không lập biên bản từ “đến 250.000 đồng đối với cá nhân, 500.000 đồng đối với tổ chức” lên gấp 02 lần, thành “đến 500.000 đồng đối với cá nhân, đến 1.000.000 đồng đối với tổ chức” (căn cứ theo mức phạt thực tế đối với hành vi vi phạm) để phù hợp với mức tăng lương tối thiểu.
Đồng thời, không thay đổi phương thức xác định theo “mức phạt tối đa của khung tiền phạt” (căn cứ theo quy định của khung tiền phạt).
Việc điều chỉnh phương thức quy định sẽ được tiếp tục nghiên cứu, đánh giá trong quá trình xây dựng đề xuất sửa đổi toàn diện Luật xử phạt vi phạm hành chính trong thời gian tới, tránh phát sinh cách hiểu và cách áp dụng khác nhau trong thực tiễn.
Về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính (Điều 37a), dự thảo Luật đã bỏ chức danh “Chánh Văn phòng Bộ, cơ quan ngang Bộ”; quy định rõ chức danh Trưởng đoàn kiểm tra của Bộ, cơ quan ngang Bộ trong thời hạn thực hiện nhiệm vụ kiểm tra có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, thay vì quy định chung trao thẩm quyền cho tất cả các Trưởng đoàn kiểm tra; rà soát, bổ sung nhóm chức danh là người thuộc Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền xử phạt để bảo đảm thống nhất với dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.
Về việc chuyển tang vật, phương tiện vi phạm hành chính trong vụ việc vi phạm có dấu hiệu tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự (Điều 62), Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh cho biết, tiếp thu ý kiến ĐBQH, dự thảo Luật bổ sung quy định: “Việc chuyển tang vật, phương tiện vi phạm hành chính liên quan đến hành vi có dấu hiệu tội phạm được thực hiện theo quy định của Chính phủ” tại khoản 1 Điều 62 Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Sở dĩ bổ sung là vì: Việc chuyển tang vật, phương tiện vi phạm hành chính trong các vụ việc có dấu hiệu tội phạm thường phức tạp, đặc biệt trong trường hợp một vụ việc đồng thời có cả hành vi vi phạm hành chính và hành vi có dấu hiệu tội phạm.
Đây là nội dung mang tính chất nghiệp vụ, chuyên môn, cần hướng dẫn cụ thể, chi tiết để bảo đảm tính khả thi và thống nhất trong tổ chức thực hiện, do đó, việc giao Chính phủ quy định nội dung này là phù hợp.
Về các biện pháp xử lý hành chính do Tòa án nhân dân ra quyết định, dự thảo Luật rà soát, chỉnh lý các quy định về thủ tục lập hồ sơ đề nghị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ Điều 99 đến Điều 104 theo hướng thống nhất cách thức quy định, thủ tục...
Nếu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có nguy cơ gây cháy nổ, ô nhiễm môi trường hoặc ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng trong quá trình quản lý, bảo quản thì phải tiến hành tiêu hủy.
Nhằm bảo đảm quyền sở hữu, sử dụng tài sản của tổ chức, cá nhân, dự thảo Luật đã quy định rõ thời điểm thực hiện các phương án xử lý nêu trên.
Theo đó, người có thẩm quyền phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm thông báo và chỉ được thực hiện các phương án xử lý sau thời hạn thông báo lần thứ hai.
Đồng thời, việc xử lý tang vật, phương tiện cũng phải bảo đảm tuân thủ các nguyên tắc “công khai, khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp luật”.
Về hiệu lực thi hành và điều khoản chuyển tiếp, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh cho biết, tiếp thu ý kiến Ủy ban Thường vụ Quốc hội, tại Nghị định quy định chi tiết Luật Xử lý vi phạm hành chính về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính sẽ quy định cụ thể các nguyên tắc, cơ chế áp dụng tạm thời thẩm quyền xử phạt theo các ngành, lĩnh vực nghị định nêu cho đến khi các nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực được sửa đổi, bổ sung, phù hợp với Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Bộ trưởng Bộ Tư pháp cũng cho biết, đối với các vấn đề còn ý kiến khác nhau hoặc chưa được đánh giá đầy đủ tác động, Chính phủ sẽ tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn và báo cáo cấp có thẩm quyền để xuất sửa đổi toàn diện Luật trong thời gian tới.
Đối với những nội dung có thể giải quyết được trong Nghị định quy định chi tiết, Chính phủ sẽ tiếp tục tổng hợp, nghiên cứu để quy định cụ thể trong Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật, bảo đảm phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính, tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác xử lý vi phạm hành chính và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp./.