Tân Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng nhấn mạnh điều này khi phát biểu giải trình tại phiên thảo luận về dự án Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp chiều 29/11.
Tại phiên họp toàn thể chiều 29/11, một số ý kiến ghi nhận, tại dự thảo Luật có hai tiến bộ rất lớn, đó là bỏ tất cả những điều liên quan đến quản trị doanh nghiệp.
Dự thảo cũng đã đưa ra nguyên tắc xác định rất rõ tiền vốn của Nhà nước sau khi đã đầu tư vào doanh nghiệp thì trở thành tiền vốn của doanh nghiệp, để không nhầm lẫn với vốn nhà nước.
Nhưng, các ý kiến cũng cho rằng, dự thảo Luật này vẫn còn có nhiều việc phải làm để tạo nền tảng cơ sở vững chắc để các doanh nghiệp nhà nước "cất cánh".
Trong đó, theo đại biểu Nguyễn Việt Hà (Tuyên Quang), dự thảo Luật còn những quy định chưa thực sự “cởi trói” cho doanh nghiệp Nhà nước, còn hạn chế quyền tự chủ, cạnh tranh bình đẳng của những doanh nghiệp này.
Trong đó, đại biểu băn khoăn, khi dự thảo Luật quy định cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn là cấp phê duyệt.
“Việc này sẽ hạn chế quyền chủ động, sáng tạo trong định hướng và triển khai các giải pháp kinh doanh của doanh nghiệp, tạo thủ tục hành chính không cần thiết khiến doanh nghiệp có thể bỏ lỡ cơ hội kinh doanh.
Hiện nay Luật Doanh nghiệp, Luật Các tổ chức tín dụng đang giao nội dung này cho doanh nghiệp quyết định”, đại biểu lưu ý.
Từ những phân tích nêu trên, đại biểu Nguyễn Việt Hà đề nghị, chỉnh sửa lại nội dung này theo hướng giao quyền chủ động cho doanh nghiệp tự quyết định, tự chịu trách nhiệm.
Nhà nước thực hiện quyền quản lý đối với nội dung này thông qua việc giao các chỉ tiêu kinh doanh trọng yếu cho doanh nghiệp như tốc độ tăng trưởng, lợi nhuận, nghĩa vụ nộp ngân sách…
Cùng quan điểm này, các ĐBQH Phan Đức Hiếu (Thái Bình), Trịnh Xuân An (Đồng Nai), Nguyễn Hải Nam (Thừa Thiên Huế)… đề nghị, phải rà soát lại toàn bộ để giảm tỷ lệ các quy định mang tính chất hành chính, trình tự, thủ tục trong luật này để giảm bớt, qua đó cởi trói và tạo điều kiện tối đa cho các doanh nghiệp nhà nước phát triển.
Đồng thời, phát huy kinh nghiệm tốt từ xây dựng, ban hành Luật Chứng khoán và Luật Doanh nghiệp, đó là hạn chế việc quy định cứng một khung pháp luật chung cho mọi loại hình doanh nghiệp nhà nước không phân biệt quy mô đầu tư, lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh.
Thực tế, với xu hướng tiếp tục thoái vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần chi phối hoặc nắm giữ, chỉ tập trung vào các doanh nghiệp đóng vai trò chủ đạo, thiết yếu, gắn với an ninh, quốc phòng, an sinh xã hội, lĩnh vực mà doanh nghiệp ngoài Nhà nước không làm, đại biểu Nguyễn Mạnh Hùng (Cần Thơ) cho rằng, tại dự thảo Luật cần có sự phân định, có quy định khác nhau về thẩm quyền, cách thức quản lý đối với các nhóm doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp giữ vai trò chủ đạo, có vị trí then chốt trong nền kinh tế, doanh nghiệp quản lý hạ tầng quan trọng quốc gia, phù hợp với định hướng phát triển theo quy hoạch của quốc gia đã được phê duyệt.
“Hiện nay, các quy định tại dự thảo Luật đang đồng nhất về cách thức, mô hình quản lý đầu tư vốn đối với tất cả các doanh nghiệp nhà nước, không có sự phân biệt, dù trên thực tế, mức độ quan trọng, phức tạp theo ngành nghề của các doanh nghiệp nhà nước rất khác nhau, nhất là về quy mô vốn và trình độ về khoa học - công nghệ.
Thực tế, có những doanh nghiệp tổng vốn tài sản nhà nước chỉ khoảng 5.000 tỷ đồng, nhưng bên cạnh đó có những doanh nghiệp vốn và tài sản lên tới khoảng 500.000 - 600.000 tỷ đồng”, đại biểu nêu rõ.
Một nội dung liên quan mật thiết đến việc tạo điều kiện cho doanh nghiệp Nhà nước phát triển là quy định về cơ quan đại diện chủ sở hữu Nhà nước tại doanh nghiệp. Tại Điều 40 của dự thảo Luật quy định có 5 dạng cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể được giao là chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
Trong đó có cả các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, các tổ chức chính trị, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và một số các tổ chức, cá nhân khác.
Đại biểu Nguyễn Mạnh Hùng (Cần Thơ) cho rằng, về hình thức, đây là các cơ quan quản lý nhà nước, hoạt động mang tính hành chính trong bộ máy chính trị.
Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp được thành lập từ năm 2018 nhằm tách bạch chức năng cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan đại diện vốn chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp.
Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động của các cơ quan chủ sở hữu vốn nhà nước vẫn mang tính chất hành chính, cơ cấu tổ chức theo ngành, lĩnh vực mà chưa gắn với quản lý theo chuyên môn điều hành doanh nghiệp về tài chính, đầu tư, kế hoạch, kế toán, kiểm toán, mô hình quản trị, kiểm tra, giám sát, quản trị rủi ro hay quan hệ với công chúng.
“Việc lựa chọn mô hình cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước là căn cứ quan trọng để quyết định xây dựng cơ chế về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của cơ quan này với việc quản lý, đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp”.
Nhấn mạnh yêu cầu này, đại biểu cho rằng, trên cơ sở kinh nghiệm quốc tế và những yếu tố riêng của Việt Nam, cần xác định rõ mô hình của cơ quan này là cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan hành chính nhà nước hay là một dạng quỹ đầu tư của Chính phủ để từ đó xác định quyền và trách nhiệm cho phù hợp, hiệu quả.
Bên cạnh đó, theo đại biểu, cũng cần xem xét hợp nhất các cơ quan chủ sở hữu thành một đầu mối thống nhất, trừ trường hợp các doanh nghiệp công ích và các doanh nghiệp có tính chất đặc thù về quốc phòng, an ninh để tránh sự phân tán và thiếu đồng nhất trong quản lý, điều hành, gia tăng tính chuyên nghiệp, chuyên môn sâu và nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan chủ sở hữu.
Đại biểu Hoàng Văn Cường nhấn mạnh, với tư cách là cổ đông trong doanh nghiệp, cơ quan đại diện chủ sở hữu phải cử người, hoặc là thuê người để đại diện, để thực hiện quyền cổ đông trong doanh nghiệp.
Do vậy, tại dự thảo Luật cần quy định rõ cơ quan đại diện chủ sở hữu sẽ giao nhiệm vụ cho người đại diện thông qua các chỉ tiêu kế hoạch mà doanh nghiệp phải thực hiện, chứ không xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch của doanh nghiệp.
“Mức độ thực hiện các nhiệm vụ kế hoạch được cơ quan đại diện chủ sở hữu giao cũng chính là các chỉ tiêu để đánh giá, phân loại doanh nghiệp và đánh giá người đại diện chủ sở hữu tại doanh nghiệp”, đại biểu lưu ý.
Thực tế cho thấy, để thực hiện các nhiệm vụ được giao, người đại diện chủ sở hữu phải được toàn quyền trong việc tổ chức bộ máy, bố trí những người phù hợp nhất với các vị trí quản trị của doanh nghiệp.
Và để bảo đảm tiền vốn đã đầu tư vào doanh nghiệp được quản lý, sử dụng đúng mục đích, phòng ngừa rủi ro, thì cơ quan đại diện chủ sở hữu phải cử bộ phận giám sát, độc lập để giám sát các hoạt động của doanh nghiệp và người đại diện chủ sở hữu.
Với những lý do nêu trên, đại biểu Hoàng Văn Cường đề nghị, quy định về công tác nhân sự ở Điều 13 của dự thảo Luật chỉ quy định các yêu cầu, nguyên tắc cử người đại diện và bộ phận giám sát của cơ quan đại diện chủ sở hữu.
Việc bổ nhiệm các vị trí quản lý khác trong bộ máy quản lý của doanh nghiệp phải do người được cử đại diện chủ sở hữu toàn quyền lựa chọn và quyết định theo các tiêu chuẩn cán bộ quản lý doanh nghiệp do Chính phủ quy định.
Phát biểu giải trình về những vấn đề đại biểu Quốc hội quan tâm, tân Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng nhấn mạnh: Việc ban hành Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp trước hết là để nâng cao hiệu quả quản lý, đầu tư vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước.
Ban hành luật này cũng hướng tới, để Nhà nước thực sự đóng vai trò là nhà đầu tư, chủ sở hữu, bình đẳng về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm với các nhà đầu tư khác trong doanh nghiệp, phù hợp thông lệ quốc tế, chấm dứt việc can thiệp hành chính vào doanh nghiệp hay lồng ghép quản lý nhà nước và hoạt động đầu tư kinh doanh…
Cụ thể hơn đó là việc tách bạch chức năng quản lý nhà nước với chức năng đầu tư vốn và hoạt động quản trị, điều hành của các doanh nghiệp, đảm bảo các doanh nghiệp hoạt động theo đúng nguyên tắc thị trường.
“Đây là những nội dung căn bản, xuyên suốt và đổi mới toàn diện trong phương thức xây dựng luật lần này”, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng nêu rõ.
Về đối tượng áp dụng, hiện dự thảo luật quy định áp dụng với các doanh nghiệp nhà nước theo quy định của Luật doanh nghiệp, tổ chức tín dụng do nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, không bao gồm Bảo hiểm tiền gửi và Ngân hàng Chính sách xã hội.
Tại phiên thảo luận, một số đại biểu đề nghị bổ sung các doanh nghiệp có vốn đầu tư của nhà nước từ 50% vốn điều lệ trở xuống và việc đầu tư vốn tại các doanh nghiệp khác có vốn đầu tư, hay còn gọi là doanh nghiệp F2, F3…
Phản hồi ý kiến này, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng cho biết, Bộ Tài chính sẽ tiếp thu để nghiên cứu, đề xuất, báo cáo Thủ tướng Chính phủ và xem xét bổ sung các đối tượng áp dụng, quy định nguyên tắc nội dung quản lý cho phù hợp với tỷ lệ vốn góp và tính chất, quy mô vốn của doanh nghiệp.
Liên quan đến xây dựng chiến lược và kế hoạch kinh doanh, hiện nay dự thảo luật quy định một số trường hợp người đại diện vốn phải trình cơ quan đại diện vốn về chiến lược kinh doanh.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng, nội dung này cơ quan chủ trì cần phải tiếp thu, nghiên cứu xem liệu có cần thiết hay không. Nếu cần thiết thì phải quy định rất gọn, rất cụ thể những nội dung cần trình là gì, để tránh việc tạo ra những rào cản không cần thiết.
Nội dung phân phối lợi nhuận sau thuế cũng là điểm được quan tâm của dự thảo luật. Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng nhấn mạnh, về nguyên tắc theo quy định pháp luật thì đây là sở hữu của các chủ sở hữu vốn, là phần để chia cổ tức, không phải là của doanh nghiệp.
Do đó, khi quy định để lại tối đa 50%, có nghĩa là nhà nước ấn định tỷ lệ này khi nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng, không nên để tỷ lệ này cao quá vì sẽ ảnh hưởng đến lợi ích của các cổ đông khác. Trong khi đề cao vai trò bình đẳng trong doanh nghiệp không nên ấn định tỷ lệ lợi nhuận để lại ở mức cao.
Trong các quy định về quản lý vốn nhà nước, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng đặc biệt nhấn mạnh vai trò của người đại diện vốn tại doanh nghiệp.
Theo ông, đây là người có vai trò quyết định đến hiệu quả hoạt động kinh doanh, việc bảo toàn, phát triển vốn tại doanh nghiệp, đặc biệt là ở những doanh nghiệp mà nhà nước có vốn từ 50% trở lên thì đây sẽ là người lãnh đạo doanh nghiệp.
Do đó, người đại diện vốn sẽ là người quyết định việc doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hay không.
Bày tỏ đồng tình với ý kiến đại biểu Hoàng Văn Cường đã phát biểu trước đó, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng nêu rõ phải có cơ chế quản lý, đánh giá gắn với chế độ đãi ngộ, cũng như công cụ phù hợp cho vai trò này.
“Chúng ta đưa ra cơ chế đánh giá rất khắt khe, người ta vất vả nhưng tiền lương, tiền thưởng lại theo barem, theo thang bậc thì không bao giờ có được người tài, và có người tài người ta cũng không bao giờ làm hết trách nhiệm của mình” - Bộ trưởng phân tích.
Nêu ví dụ ở các doanh nghiệp tư nhân cùng ngành, lương người quản lý có thể cao gấp vài chục lần ở doanh nghiệp nhà nước, Bộ trưởng cho rằng nếu lương người đại diện vốn trả thấp là không được.
Cùng với đó, việc quản lý, đánh giá hiệu quả phải rất khách quan, minh bạch như ý kiến các đại biểu đã nêu. Theo đó, doanh nghiệp phải làm ăn hiệu quả, các chỉ tiêu, mức thưởng, phạt, thậm chí mức nào bị sa thải cũng phải đặt ra rất rõ ràng.
“Người ta phải có đầy đủ thẩm quyền trong lãnh đạo, chỉ đạo. Doanh nghiệp tư nhân ở ngoài như thế nào, doanh nghiệp nhà nước chúng ta áp dụng những cơ chế như thế thì tự khắc nó khác”, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng nêu quan điểm.
Chẳng hạn, Bộ trưởng lấy ví dụ, người có mức lương cao khi đàm phán dự án sẽ có trách nhiệm cao hơn nhiều so với người đàm phán dự án với mức lương bình thường, kết quả đàm phán sẽ rất khác nhau. Thậm chí, mức lương thấp có thể dẫn đến việc người đàm phán cố tình gửi gắm, cài giá…
“Khó khăn nhất chính là vấn đề liên quan đến chế độ lương thưởng của các người đại diện vốn tại các doanh nghiệp nhà nước”, Bộ trưởng nhấn mạnh.
Do vậy, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng bày tỏ đồng tình với các ý kiến đại biểu rằng vấn đề này cần phải được làm công khai, minh bạch, phải có cơ chế cho doanh nghiệp nhà nước như doanh nghiệp tư nhân.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng, nhiều ý kiến đại biểu góp ý cho dự thảo Luật tại tổ cũng như tại phiên họp rất xác đáng, sâu sắc, cần được nghiên cứu và tiếp thu.
Với vai trò là cơ quan chủ trì, Bộ Tài chính sẽ tiếp thu các ý kiến đã phát biểu cũng như các ý kiến chưa được phát biểu với tinh thần cầu thị cao nhất để nghiên cứu hoàn chỉnh hồ sơ dự thảo luật với chất lượng cao nhất và báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ sau khi kết thúc kỳ họp.
Kết luận phiên họp, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải nêu rõ, qua thảo luận, các đại biểu nhất trí sửa đổi, ban hành Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp để khắc phục bất cập của Luật hiện hành, thể chế hóa chủ trương của Đảng, bảo đảm nguyên tắc Nhà nước là chủ sở hữu vốn, đầu tư vốn nhưng không can thiệp hành chính vào hoạt động kinh doanh, quản trị của doanh nghiệp.
Đẩy mạnh phân cấp phân quyền, tạo chủ động, phát huy tính năng động, sáng tạo của doanh nghiệp nhà nước cùng với việc có cơ chế quản lý chặt chẽ, tránh lạm dụng làm thất thoát tài sản nhà nước, gắn trách nhiệm của đơn vị, người đại diện vốn nhà nước.
Tăng cường tính công khai, minh bạch về thực trạng tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có vốn nhà nước để bảo đảm việc kiểm tra, giám sát, kiểm toán của Nhà nước và của nhân dân đối với vốn của nhà nước.
Phó Chủ tịch Quốc hội cho biết, các đại biểu cũng tham gia nhiều ý kiến thảo luận về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, giải thích từ ngữ, trong đó bổ sung hoặc loại bỏ một số từ ngữ, nguyên tắc, mục tiêu, yêu cầu, nội dung quản lý đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Chính phủ, các bộ, cơ quan, người đại diện chủ sở hữu vốn.
Quyền hạn, trách nhiệm của doanh nghiệp có vốn của nhà nước, tăng cường tính công khai, minh bạch và cơ chế để sử dụng quỹ đầu tư phát triển tại doanh nghiệp, nguyên tắc đầu tư của doanh nghiệp, sắp xếp, cơ cấu vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp và đánh giá, xếp loại doanh nghiệp. Quan tâm đến quyền lợi của cổ đông khi giải thể doanh nghiệp nhà nước và lưu ý loại hình doanh nghiệp về quốc phòng, an ninh.
Các đại biểu tham gia nhiều ý kiến quan trọng vào điều, khoản cụ thể trong dự thảo Luật. “Đây là những ý kiến tâm huyết, trách nhiệm cần nghiên cứu kỹ lưỡng để hoàn thiện dự thảo Luật đảm bảo chất lượng cao nhất, trên cơ sở thực sự nghiêm túc, cầu thị như Bộ trưởng đã hứa”, Phó Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh.
Phó Chủ tịch Quốc hội cũng nêu rõ, ý kiến của các đại biểu Quốc hội đã được ghi âm, ghi chép đầy đủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ chỉ đạo cơ quan thẩm tra phối hợp chặt chẽ với cơ quan soạn thảo và các cơ quan liên quan nghiên cứu các ý kiến phát biểu của Quốc hội để tiếp thu, hoàn chỉnh dự án Luật trình Quốc hội xem xét, quyết định khi đủ điều kiện.