Theo đó, ngay sau khi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quyết định điều chỉnh biên độ tỷ giá giao ngay USD/VND từ mức ±3% lên ±5% vào sáng ngày 17/10, tỷ giá đã có biến động.
Cụ thể khi tỷ giá trung tâm được Ngân hàng Nhà nước niêm yết ở mức 24.586 đồng/USD, tỷ giá VND/USD đều niêm yết vượt 24.000 đồng.
Tại Vietcombank đang niêm yết giá ngoại tệ ở mức 23.920-24.230 đồng/USD (mua - bán).
Còn giá đồng bạc xanh trên thị trường "chợ đen" được giao dịch ở mức 24.250-24.330 đồng/USD (mua - bán).
PGS.TS Đinh Trọng Thịnh cho rằng, việc điều chỉnh biên độ giao ngay của Ngân hàng Nhà nước là rất tốt.
Theo PGS.TS Đinh Trọng Thịnh, trong thời gian vừa qua lạm phát tăng cao, các quốc gia trên thế giới đã điều chỉnh lãi suất rất nhiều, tính ra có 209 lượt điều chỉnh lãi suất từ các ngân hàng trung ương các nước.
Đặc biệt, tại Mỹ đã có 3 lần điều chỉnh lãi suất đồng USD và làm cho chỉ số USD index tăng mạnh. Như vậy so với các đồng bạc của Thái Lan, đồng bảng Anh, đồng Euro… đồng USD đã tăng giá rất cao.
Hiện nay áp lực việc USD tăng giá là quá lớn, PGS.TS Đinh Trọng Thịnh ủng hộ việc điều chỉnh biên độ giao ngay. Dù mong muốn ổn định tỷ giá nhưng do đồng đô la quá mạnh nên Ngân hàng Nhà nước phải điều chỉnh.
Trong thời gian vừa qua, Ngân hàng Nhà nước phải bán ra một lượng lớn đồng USD kèm với đó thực hiện nhiều giải pháp.
Theo PGS.TS Đinh Trọng Thịnh khi điều chỉnh biên độ giao ngay, thì việc đầu tiên là chênh lệch giá USD ở thị trường chính thống và thị trường chợ đen sẽ giảm.
Các ngân hàng thương mại có thể bán được USD giá cao, cũng có thể mua được USD giá thấp. Như vậy hoạt động đầu cơ USD được giảm đi. Các hoạt động mua bán USD từ ngân hàng để tuồn ra chợ đen để giao dịch lại sẽ được hạn chế.
"Khi Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh biên độ giao dịch, sẽ có thêm nhiều dư địa để thực hiện các giải pháp tiền tệ khác nữa nhằm ổn định kinh tế vĩ mô", PGS.TS Đinh Trọng Thịnh nói.
Các chuyên gia kinh tế cho rằng có điều đáng bàn là khi Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh biên độ giao ngay của đồng USD, sẽ tăng áp lực lên các doanh nghiệp nhập khẩu.
Là doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi, Công ty cổ phần Công nghệ Hà Lan (Vĩnh Phúc) thường phải nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất. Ông Vũ Văn Hòa, Tổng giám đốc công ty cho hay, giá nguyên liệu trên thế giới và tỷ giá tăng khiến công ty chịu tác động kép, chi phí sản xuất ngày càng đắt đỏ, trong khi giá sản phẩm không thể tăng tương ứng.
Với doanh nghiệp xuất khẩu nhưng vẫn nhập khẩu nguyên phụ liệu để sản xuất, tỷ giá tăng cũng gây nhiều áp lực. Ông Phạm Xuân Hồng, Chủ tịch Hội Dệt may thêu đan TP. Hồ Chí Minh cho hay, tỷ giá tăng, nhưng các doanh nghiệp xuất khẩu không thể vui, bởi giá nguyên phụ liệu nhập khẩu tăng mạnh khiến phần lãi chênh lệch từ tỷ giá hầu như không đáng kể.
Chưa kể, lạm phát tăng nhanh khiến người dân các quốc gia nhập khẩu thắt chặt chi tiêu, đơn hàng ngày càng ít, các nhà nhập khẩu liên tục "ép" giá. Trong khi đó, nhiều đối thủ của Việt Nam phá giá đồng tiền mạnh hơn khiến hàng Việt mất lợi thế cạnh tranh. Đây là tình trạng chung với doanh nghiệp nhiều ngành hàng xuất khẩu có sử dụng nguyên liệu nhập khẩu.
Theo ông Phạm Xuân Hồng, kể cả với nhiều doanh nghiệp không sử dụng nguồn nguyên liệu nhập khẩu, tỷ giá tăng cũng khiến chi phí sản xuất đội lên đáng kể, đặc biệt là chi phí logistics, chi phí lãi vay với các doanh nghiệp vay nợ nước ngoài.
GS.TS Hoàng Văn Cường, Phó Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế quốc dân cho rằng, từ nay đến cuối năm, áp lực về lạm phát không phải lớn, nhưng lớn nhất là áp lực về kiểm soát tỷ giá.
Theo ông Cường, Việt Nam phải kiên định giữ tỷ giá, nhưng không có nghĩa là cứng nhắc mà phải linh hoạt với thị trường.
Nếu không ổn định được tỷ giá thì có thể dẫn đến nguy cơ dự trữ ngoại tệ chuyển thành dự trữ của cá nhân doanh nghiệp. Khi đó chúng ta sẽ mất khả năng chủ động về nguồn ngoại tệ,ông Cường nêu rõ.
Theo Ngân hàng Nhà nước, từ đầu năm 2022 đến nay, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) và nhiều Ngân hàng trung ương lớn đẩy mạnh lộ trình thắt chặt chính sách tiền tệ, tăng nhanh lãi suất điều hành, xung đột Nga-Ukraine làm chuỗi cung ứng toàn cầu tiếp tục gián đoạn, giá xăng dầu và hàng hóa tăng cao, lạm phát tại nhiều nền kinh tế vượt mức kiểm soát… gây biến động lớn trên thị trường quốc tế và trong nước.
Nếu tính đến ngày 20/9/2022, so với cuối năm 2021, nhiều đồng tiền chủ chốt trong khu vực và trên thế giới đã mất giá mạnh so với USD. Cụ thể, đồng tiền Đài Loan (TWD giảm 13,5%; đồng Baht Thái Lan (THB) giảm 11,95%; Yên Nhật Bản (JPY)giảm 25,18%; Won Hàn Quốc (KRW) giảm 17,57%; đồng Peso Philippines (PHP) giảm 13,65%; đồng Kyat của Myanmar (MYR) giảm 9,67%. Đồng Rupiah của Indonesia (INR) cũng giảm giá 7,44%; đồng Nhân dân tệ Trung Quốc (CNY) giảm 10,9%; Đồng tiền chung châu ÂuEuro (EUR) giảm 13,49%; đồng Bảng Anh (GBP) giảm 20,02%...
Việc các đồng tiền trên thế giới mất giá so với USD chủ yếu do bị tác động bởi động thái tăng lãi suất liên tục của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed).
Theo khẳng định Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng, nền kinh tế thế giới thời gian vừa qua có nhiều biến động khó lường ảnh hưởng lớn đến kinh tế trong nước.
Nền kinh tế Việt Nam có độ mở cửa lớn, sản xuất phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu nhập khẩu trong khi giá cả thế giới tăng cao và có thể tiếp tục tăng nếu như diễn biến lạm phát thế giới chưa kiểm soát được.
Ngân hàng Nhà nước cho biết, với nhiệm vụ điều hành chính sách tiền tệ, góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế, Ngân hàng Nhà nước không thể chủ quan với diễn biến của lạm phát và không thể chỉ kiểm soát lạm phát năm nay mà còn các năm sau. Đó là mục tiêu kiên định trong dài hạn./.
Theo TTXVN