Theo ông Nguyễn Tiến Thỏa, bất cập thứ nhất có tính chất bao trùm là giá điện chưa thực hiện theo cơ chế thị trường.
Ông dẫn chứng, Nghị quyết số 55 của Bộ Chính trị đã đánh giá là chính sách năng lượng của chúng ta còn bất cập và chưa hoàn toàn phù hợp với cơ chế thị trường.
Vậy, chưa phù hợp với cơ chế thị trường có nghĩa là gì? Theo ông Thỏa: Giá thị trường thế giới thế nào, trong nước thế nào đều phản ánh vào giá hết. Thế nhưng giá đầu ra lại không phản ánh được những biến động của các chi phí đó. Có lúc thì điều chỉnh quá lâu, có lúc điều chỉnh lại không tính đúng, tính đủ, không bảo đảm bù đắp toàn bộ chi phí đã bỏ ra để sản xuất kinh doanh điện.
Chính vì vậy, việc sản xuất kinh doanh điện gặp rất nhiều khó khăn. Số liệu mới nhất 2 năm 2022-2023 gần đây thì chính cách điều hành như vậy đã gây lỗ của ngành điện khoảng 47.500 tỷ đồng.
"Đây là khó khăn lớn cho việc cải thiện dòng tiền của ngành điện để đầu tư, phát triển nguồn và lưới", ông Nguyễn Tiến Thỏa nhận định.
Thứ hai, giá điện hiện nay chúng ta kỳ vọng và giao cho nó gánh vác nhiệm vụ đa mục tiêu. Chúng ta muốn phải tính đúng, tính đủ, bảo đảm bù đắp chi phí nhưng phải khuyến khích thu hút đầu tư, phải đảm bảo an sinh xã hội, phải bảo đảm an ninh năng lượng, kiểm soát lạm phát. Rất nhiều mục tiêu.
Có những mục tiêu ngược chiều nhau. Xử lý các mục tiêu đó rất khó hài hòa, không đảm bảo được mong muốn mà chúng ta đặt ra. Cho nên chúng ta phải có tính toán hợp lý vai trò của giá điện, cái nào là mũi nhọn.
Như Nghị quyết 55 nói, chúng ta phải dùng những biện pháp như là thuế, phí, các quỹ điều tiết các thị trường để điều tiết thị trường điện chứ không chỉ trông cậy vào việc kiềm chế giá thấp để đảm bảo được mục tiêu kiểm soát lạm phát.
Phải tính toán lại chính sách phát điện từ chính sách thị trường này.
Thứ ba là bất cập trong cơ chế bù chéo giá điện hiện nay, để kéo quá dài và lộ trình xử lý không rõ ràng.
Bù chéo ở đây thể hiện cái gì?
Bù chéo giữa nhóm những người tiêu dùng điện sinh hoạt với nhau - bậc cao bù cho bậc thấp, bù chéo giữa giá điện sinh hoạt trong sản xuất ở mức độ nhất định.
Tất nhiên là giá điện trong sản xuất phải thấp hơn bởi vì tiêu dùng điện hạ áp giá đắt hơn nhưng vẫn có bù chéo nhất định giữa điện cho sinh hoạt đối với điện sản xuất.
Và một điểm nữa là bù chéo về giá điện giữa các vùng miền với nhau. Điện ở các xã, huyện hải đảo thường 7.000-9.000, nhưng chúng ta vẫn bán 1.000-2.000, tức là lấy vùng thấp bù cho vùng cao...
Chính Nghị quyết số 55 của Bộ Chính trị cũng đã yêu cầu cái mới tức là chúng ta phải chấm dứt bù chéo trong giá điện và việc này cũng đang đề nghị đưa vào Luật Điện lực mới, phải luật hóa yêu cầu này.
Bất cập thứ tư là giá điện chưa tách bạch giữa giá với chính sách an sinh xã hội.
Chúng ta chưa dứt khoát trong thực hiện các chính sách xã hội. Ví dụ đối với người thu nhập thấp, người nghèo thì chúng ta hỗ trợ trực tiếp bằng tiền điện, tách ra được.
Nhưng trong biểu giá điện vẫn còn thể hiện những chính sách an sinh xã hội đối với những người thu nhập thấp thì giá bán 92-95% so với giá bán lẻ bình quân. Vẫn còn cách đó, hay giá bù cho các vùng miền...
Cũng trong chính sách giá điện vừa qua, nếu chúng ta giảm giá điện là chúng ta giảm giá để ngành điện phải tự gánh vác. Ví dụ như dịch COVID-19 chẳng hạn, chúng ta quyết định giảm giá điện nhưng chúng ta không quy định chính sách để điều tiết thị trường hợp lý.
Chính sách thuế xử lý như thế nào, các công cụ thị trường xử lý như thế nào và chính sách an sinh xã hội chúng ta nên tách ra như thế nào để xử lý? Cho nên chính sách giá điện vẫn còn lẫn lộn, không bảo đảm đúng nguyên lý về giá cả để bảo đảm mục tiêu khuyến khích ngành điện phát triển, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.