Bộ Giáo dục và Đào tạo đang lấy ý kiến nhân dân đối với Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù để thực hiện đột phá phát triển giáo dục và đào tạo trong đó đề xuất 6 nhóm chính sách quan trọng.
Nghị quyết quy định một số cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo áp dụng đối với các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, các tổ chức và cá nhân có liên quan.
Bố cục của dự thảo Nghị quyết: Nghị quyết bao gồm 10 Điều, cụ thể như sau: Điều 1 - Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng; Điều 2 - Nguyên tắc áp dụng áp dụng một số cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo; Điều 3 - Tổ chức hệ thống, nhân lực và quản trị cơ sở giáo dục; Điều 4 - Chương trình, nội dung và cơ chế phát triển giáo dục; Điều 5 - Chuyển đổi số, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong giáo dục; Điều 6 - Hội nhập quốc tế trong giáo dục và đào tạo; Điều 7 - Quỹ học bổng Quốc gia; Điều 8 - Tài chính và đầu tư cho giáo dục và đào tạo; Điều 9 - Tổ chức thực hiện; Điều 10 - Điều khoản thi hành.
Trên cơ sở rà soát các vướng mắc, khó khăn, bất cập của hoạt động giáo dục và đào tạo hiện nay, dự thảo Nghị quyết dự kiến sẽ tập trung giải quyết các vấn đề mang tính đột phá, chiến lược để thể chế hóa Nghị quyết 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị và để phát triển giáo dục và đào tạo như sau:
Thứ nhất, nhóm chính sách về tổ chức, nhân lực và quản trị (Điều 3) được xây dựng nhằm giải quyết vấn đề nhân lực ngành giáo dục, bao gồm tình trạng thừa thiếu giáo viên cục bộ, chế độ đãi ngộ bất cập và các rào cản hành chính trong việc tuyển dụng, sử dụng nhân tài, chuyên gia. Trong đó:
Về thẩm quyền của cơ quan quản lý trực tiếp (Điều 3.2): Cơ quan quản lý trực tiếp bổ nhiệm nhân sự người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp công lập phù hợp với quy định của Đảng và Pháp luật có liên quan (trừ các Đại học Quốc gia); được phép quy định số lượng cấp phó của người đứng đầu khác với cơ cấu nhân sự trong giai đoạn chuyển tiếp bãi bỏ hội đồng trường của cơ sở giáo dục đại học công lập.
Về thẩm quyền của Giám đốc Sở GDĐT (Điều 3.3): Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo có thẩm quyền tuyển dụng, tiếp nhận, điều động, thuyên chuyển, biệt phái nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục, nhân viên trong các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông công lập trên địa bàn cấp tỉnh.
Về thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ GDĐT (Khoản 4): Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành quy định về tiêu chuẩn, tiêu chí đối với Giám đốc và Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo bảo đảm lựa chọn, bổ nhiệm người có trình độ chuyên môn, năng lực quản lý và kinh nghiệm phù hợp với yêu cầu lãnh đạo, quản lý ngành giáo dục tại địa phương.
Về phụ cấp ưu đãi đặc thù (Điều 3.5.a): Nâng phụ cấp ưu đãi nghề lên mức tối thiểu 70% đối với giáo viên mầm non, phổ thông, trung học nghề; 30% đối với nhân viên trường học; 100% đối với nhà giáo công tác tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, các cơ sở giáo dục cho người khuyết tật, trường chuyên biệt.
Chính sách cụ thể hóa trực tiếp yêu cầu tại Nghị quyết 71-NQ/TW, là giải pháp chiến lược, cấp bách để ngăn chặn tình trạng giáo viên rời bỏ ngành, tạo sức hút để tuyển dụng mới, từng bước giải quyết tình trạng thiếu hụt giáo viên hiện nay.
Về cơ chế tuyển dụng (Điều 3.5.b): Cho phép các địa phương được áp dụng chính sách đãi ngộ linh hoạt, có thể không phụ thuộc vào hệ thống thang bảng lương viên chức chung, tạo điều kiện để cạnh tranh bình đẳng trên thị trường lao động toàn cầu.
Về cơ chế đồng cơ hữu (Điều 3.5.c): Cho phép các chuyên gia, nhà khoa học từ các cơ sở nghiên cứu, cơ sở khám chữa bệnh, doanh nghiệp có thể kiêm nhiệm giảng dạy, nghiên cứu tại các cơ sở giáo dục nhằm tối ưu hóa nguồn nhân lực trí thức chất lượng cao của xã hội, không tăng biên chế, đồng thời tăng cường liên kết giữa đào tạo - nghiên cứu - sản xuất kinh doanh.
Thứ hai, nhóm chính sách về chương trình, nội dung và cơ chế phát triển giáo dục (Điều 4 dự thảo Nghị quyết) được xây dựng nhằm tháo gỡ thủ tục hành chính trong thẩm định, phê duyệt và thí điểm chương trình giáo dục mới, tạo không gian và động lực cho sự đổi mới, sáng tạo từ cấp cơ sở, đáp ứng nhanh với sự thay đổi của thực tiễn.
Trong đó: Về trách nhiệm của Chính phủ (Điều 4.1): Chính phủ quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục:
a) Quyết định các chủ trương lớn có ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ học tập của công dân trong phạm vi cả nước;
b) Quyết định cải cách nội dung chương trình của từng cấp học; quyết định việc áp dụng đại trà chính sách mới trong giáo dục đã được thí điểm thành công, khi việc áp dụng đó ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ học tập của công dân trên phạm vi cả nước;
c) Quy định cơ chế khuyến khích và chính thức hóa mô hình đào tạo theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp; cơ chế đồng tài trợ, đồng phát triển chương trình và công nhận kết quả học tập, kỹ năng do doanh nghiệp tổ chức đào tạo, phù hợp với pháp luật;
Về trách nhiệm của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (Điều 4.2): Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo:
a) Hằng năm báo cáo Chính phủ về hoạt động giáo dục và việc thực hiện ngân sách giáo dục; chỉ đạo đổi mới chương trình giáo dục mầm non nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện của trẻ em ngay từ giai đoạn đầu;
b) Cho phép thí điểm triển khai chương trình giáo dục đổi mới (tích hợp, STEM/STEAM, song ngữ, quốc tế) và thành lập Hội đồng kỹ năng nghề ở một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, ưu tiên; việc thẩm định, phê duyệt chương trình và quy định cơ chế hoạt động của Hội đồng kỹ năng nghề do Bộ trưởng quy định;
c) Cho phép cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp xây dựng và triển khai chương trình đào tạo mở, linh hoạt, gắn với nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo, chuyển giao công nghệ và nhu cầu thị trường lao động; đồng thời quy định việc công nhận kết quả học tập, tín chỉ, chứng chỉ và kỹ năng tích lũy từ nhiều hình thức học tập, bảo đảm chuẩn đầu ra, kiểm định chất lượng, tính liên thông trong hệ thống giáo dục quốc dân, thúc đẩy học tập suốt đời và hội nhập quốc tế;
d) Thực hiện cơ chế đặc thù để tiếp nhận, chuyển giao, đặt hàng chương trình đào tạo nghề chất lượng cao từ các quốc gia tiên tiến trong các lĩnh vực công nghệ lõi, bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, năng lượng tái tạo, công nghệ sinh học, tự động hóa, cơ khí chính xác; lựa chọn cơ sở trọng điểm để tổ chức thí điểm, tiến tới nhân rộng;
đ) Chịu trách nhiệm về việc chủ trì tổ chức thực hiện và quyết định sử dụng một bộ sách giáo khoa giáo dục phổ thông để áp dụng thống nhất toàn quốc theo lộ trình phù hợp, bảo đảm hiệu quả và tiết kiệm.
Áp dụng cơ chế đặc thù trong giáo dục và đào tạo đối với các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao thành tích cao (Điều 4.3): Chính phủ quy định cơ chế, chính sách đối với các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao thành tích cao, bao gồm: phát hiện, tuyển chọn và đào tạo tài năng từ sớm; áp dụng chuẩn nghề nghiệp riêng cho giảng viên, huấn luyện viên, nghệ sĩ; ưu tiên đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị đặc thù phục vụ đào tạo và thực hành; thực hiện chính sách đãi ngộ gắn với thành tích quốc gia, quốc tế; đặt hàng đào tạo nhân lực chất lượng cao gắn với nhu cầu doanh nghiệp và thị trường lao động.
Thứ ba, nhóm chính sách về chuyển đổi số, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong giáo dục (Điều 5 dự thảo Nghị quyết) nhằm đáp ứng yêu cầu của Chương trình Chuyển đổi số quốc gia và xu thế phát triển tất yếu của giáo dục thế giới, khắc phục tình trạng hạ tầng số và các nền tảng ứng dụng trong ngành còn manh mún, thiếu đồng bộ, chưa phát huy hiệu quả. Trong đó:
Về thí điểm mô hình hợp tác giữa Nhà nước, nhà trường và doanh nghiệp (Điều 5.1): Thực hiện thí điểm mô hình hợp tác giữa Nhà nước, nhà trường và doanh nghiệp để xây dựng Nền tảng giáo dục quốc gia thông minh, gồm nền tảng quản trị cơ sở giáo dục và nền tảng dạy học ứng dụng trí tuệ nhân tạo có kiểm soát, bảo đảm mỗi học sinh có một gia sư ảo, mỗi giáo viên có một trợ lý ảo, nhằm cá nhân hóa việc học tập, đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra, đánh giá phù hợp với ngôn ngữ, văn hóa và pháp luật Việt Nam.
Về phát triển hệ thống thông tin giáo dục và nhân lực quốc gia (Điều 5.2): Phát triển hệ thống thông tin giáo dục và nhân lực quốc gia, bảo đảm kết nối, liên thông với hệ thống thông tin thị trường lao động, việc làm và tích hợp dữ liệu về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo của các cơ sở giáo dục, phục vụ đánh giá, dự báo cung – cầu nhân lực, nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành và chất lượng giáo dục, đào tạo.
Về thu hút chuyên gia, nhà khoa học (Điều 5.3): Thí điểm sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước để thu hút chuyên gia, nhà khoa học có trình độ cao ở nước ngoài tham gia nghiên cứu, phát triển công nghệ chiến lược tại các cơ sở giáo dục đại học.
Về thí điểm mô hình giáo dục đại học số (Điều 5.3): Chính sách giúp tối ưu hóa nguồn lực, cho phép các trường đại học liên kết, chia sẻ học liệu số, đội ngũ giảng viên, phòng thí nghiệm ảo, từ đó tạo ra một hệ sinh thái giáo dục đại học kết nối, hiệu quả và có khả năng tiếp cận rộng rãi hơn.
Về phát triển phòng thí nghiệm dùng chung (Điều 5.4): Xây dựng cơ chế hợp tác giữa Nhà nước, nhà trường và doanh nghiệp để đầu tư phát triển phòng thí nghiệm dùng chung, tăng cường đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, ưu tiên các lĩnh vực công nghệ chiến lược.
Thứ tư, nhóm chính sách về hội nhập quốc tế trong giáo dục và đào tạo (Điều 6 dự thảo Nghị quyết) Phá bỏ các rào cản hành chính, tạo ra một môi trường thực sự mở và cạnh tranh để thu hút nhân tài toàn cầu, nâng cao vị thế và sức hấp dẫn của giáo dục Việt Nam trên trường quốc tế.
Trong đó: Về miễn thị thực và giấy phép lao động (Điều 6.1): Chính sách đột phá, chuyển đổi cách tiếp cận từ rào cản hành chính sang lợi thế cạnh tranh. Chính sách thí điểm miễn thị thực và giấy phép lao động trong 05 năm cho nhóm đối tượng chuyên gia, nhà khoa học là người nước ngoài, hướng tới mục tiêu đề ra tại Nghị quyết 71-NQ/TW là tuyển dụng ít nhất 2.000 giảng viên giỏi từ nước ngoài.
Về xác nhận quản lý (Điều 6.2): Các đại học và cơ sở giáo dục đại học trọng điểm được phép xác nhận trường hợp chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài có trình độ tiến sĩ được mời làm quản lý, giảng dạy, nghiên cứu khoa học, trao đổi học thuật tại cơ sở mình không thuộc diện phải cấp giấy phép lao động theo tiêu chí do do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
Việc xác nhận của cơ sở giáo dục đại học thay thế thủ tục xin xác nhận tại cơ quan có thẩm quyền ở địa phương.
Cơ sở giáo dục đại học chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của văn bằng, chứng chỉ và điều kiện làm việc của chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài theo quy định của pháp luật.
Về tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế (Điều 6.3): Cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế trong các ngành, lĩnh vực đặc thù theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo; thực hiện thông báo theo mẫu do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
Về liên kết thành lập phân hiệu của cơ sở giáo dục đại học nước ngoài tại Việt Nam (Điều 6.4): Khuyến khích cơ sở giáo dục đại học Việt Nam và cơ sở giáo dục đại học nước ngoài thuộc nhóm 500 cơ sở giáo dục đại học được xếp thứ hạng cao nhất trong các bảng xếp hạng cơ sở giáo dục đại học có uy tín trên thế giới của một trong ba năm gần nhất liên kết thành lập phân hiệu của cơ sở giáo dục đại học nước ngoài tại Việt Nam theo phương thức đối tác công tư (PPP) trong lĩnh vực giáo dục.
Về cho phép sinh viên quốc tế làm thêm (Điều 6.5): Chính sách cho phép sinh viên quốc tế được phép làm thêm tối đa 20 giờ/tuần để đảm bảo chi phí sinh hoạt, trải nghiệm văn hóa, môi trường làm việc tại Việt Nam, góp phần thu hút thêm sinh viên quốc tế.
Thứ năm, nhóm chính sách về về Quỹ học bổng Quốc gia (Điều 7) nhằm tạo ra một cơ chế tài chính linh hoạt, bổ sung ngân sách nhà nước, để tài trợ cho các ý tưởng, dự án đổi mới, đột phá mà cơ chế ngân sách truyền thống khó đáp ứng kịp thời và hiệu quả.
Chính sách quy định Quỹ sẽ hoạt động như một "quỹ đầu tư" cho các sáng kiến giáo dục, ưu tiên tài trợ cho các dự án thí điểm đổi mới chương trình, phương pháp dạy học, các nghiên cứu khoa học giáo dục có tính ứng dụng cao, các dự án chuyển đổi số và cấp học bổng cho các tài năng trẻ.
Với nguồn vốn đa dạng từ ngân sách, xã hội hóa và các nguồn viện trợ, Quỹ sẽ là đòn bẩy tài chính quan trọng, thúc đẩy sự sáng tạo và đổi mới từ cấp cơ sở.
Nguồn hình thành Quỹ gồm: ngân sách nhà nước; đóng góp, tài trợ, viện trợ của tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài; và các nguồn hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.
(Điều 7.2) Nhiệm vụ của Quỹ (Điều 7.3):
a) Cấp học bổng tài năng, hỗ trợ phát triển nhân lực chất lượng cao, ưu tiên hỗ trợ học bổng cho nghiên cứu sinh và học viên cao học tài năng trong các ngành khoa học công nghệ cơ bản;
b) Khuyến khích, hỗ trợ học tập, nghiên cứu của học sinh, sinh viên, học viên sau đại học và nhà giáo;
c) Hỗ trợ phát triển kỹ năng nghề cho người học và người lao động trong các ngành, lĩnh vực ưu tiên, gắn với nhu cầu thị trường lao động và hội nhập quốc tế;
d) Phát huy hiệu quả các quỹ khuyến tài, khuyến học và các quỹ phát triển kỹ năng khác từ nguồn ngân sách và xã hội hóa theo quy định của pháp luật.
Chính phủ ban hành quy chế tổ chức, quản lý và sử dụng Quỹ, bảo đảm công khai, minh bạch, hiệu quả, có kiểm toán độc lập; đồng thời quy định trách nhiệm phối hợp, giám sát của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan. (Điều 7.4)
Thứ sáu, nhóm chính sách về tài chính và đầu tư cho giáo dục và đào tạo (Điều 8 dự thảo Nghị quyết) được xây dựng nhằm giải quyết tình trạng đầu tư cho giáo dục chưa tương xứng, ngăn chặn sụt giảm ngân sách đầu tư cho giáo dục đại học và tăng cường huy động nguồn lực xã hội.
Trong đó: Về tỷ lệ chi ngân sách (Điều 8.1): Quy định tỷ lệ chi tối thiểu 20% tổng chi NSNN cho giáo dục, trong đó chi đầu tư phát triển không thấp hơn 5% và chi cho giáo dục đại học không thấp hơn 3% tổng chi ngân sách nhà nước.
Chính sách nhằm chấm dứt tình trạng phân bổ ngân sách không đạt mục tiêu, đảo ngược xu thế suy giảm đầu tư cho giáo dục đại học, tạo nguồn lực tài chính ổn định và nền tảng để các trường đại học nâng cao chất lượng, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học.
Về ngân sách ưu tiên bố trí (Điều 8.2): Ngân sách nhà nước ưu tiên bố trí cho giáo dục mầm non, phổ thông, giáo dục ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và các nhóm yếu thế; đồng thời bảo đảm đầu tư thích đáng cho giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục thường xuyên theo định hướng phát triển nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu đổi mới sáng tạo, khoa học - công nghệ.
Về cơ chế tài chính đặc biệt (Điều 8.3): Nhà nước xây dựng cơ chế tài chính để:
a) Bảo đảm điều kiện cần thiết để thực hiện chính sách giáo dục bắt buộc hết trung học cơ sở vào năm 2030; hoàn thành phổ cập trung học phổ thông và tương đương vào năm 2035;
b) Phân bổ ngân sách nhà nước cho các cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp dựa trên sứ mạng, chất lượng và hiệu quả theo cơ chế thống nhất trong toàn ngành;
c) Ưu tiên đặt hàng, giao nhiệm vụ đối với các ngành, lĩnh vực trọng điểm theo kết quả đầu ra; đặt hàng, giao nhiệm vụ đào tạo giáo viên, giảng viên giáo dục nghề nghiệp từ ngân sách nhà nước;
d) Bảo đảm có nguồn ngân sách riêng trong chi thường xuyên và đầu tư phát triển để tăng cường đầu tư, hỗ trợ các nhiệm vụ khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo trong giáo dục;
đ) Bố trí kinh phí cho các hoạt động giáo dục văn hóa, xã hội, thể thao, quốc phòng - an ninh và ngoại ngữ để hội nhập quốc tế, quảng bá hình ảnh, nâng cao vị thế quốc gia.
Về khuyến khích xã hội hóa (Điều 8.4): Khuyến khích xã hội hóa, huy động nguồn lực hợp pháp từ tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài để phát triển giáo dục; bảo đảm nguyên tắc công khai, minh bạch, tiết kiệm, hiệu quả; đồng thời cho phép áp dụng cơ chế, thủ tục rút gọn đối với một số dự án đầu tư công quan trọng trong lĩnh vực giáo dục.
Về miễn phí sách giáo khoa (Điều 8.5): Chính sách góp phần giảm bớt gánh nặng tài chính cho xã hội, thực hiện công bằng trong giáo dục, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, đảm bảo mọi học sinh, không phân biệt hoàn cảnh, đều có đủ điều kiện học tập tối thiểu.
Về cơ chế ưu đãi đầu tư vượt trội cho giáo dục (Điều 8.6): Chính phủ quy định cơ chế ưu đãi đầu tư vượt trội cho giáo dục, bao gồm:
a) Quy định diện tích tối thiểu, quy chuẩn, tiêu chuẩn cơ sở vật chất giáo dục từng bước tiệm cận khu vực, quốc tế;
b) Ưu tiên quỹ đất sạch, giao đất sạch cho phát triển giáo dục; cho phép chuyển đổi phù hợp mục đích sử dụng đất sang đất giáo dục;
c) Thực hiện miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuế sử dụng đất đối với cơ sở giáo dục trong nước theo quy định của pháp luật, phù hợp khả năng cân đối ngân sách;
d) Không áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp đối với cơ sở giáo dục công lập, cơ sở giáo dục tư thục hoạt động không vì lợi nhuận theo quy định pháp luật thuế hiện hành;
e) Ưu tiên sử dụng trụ sở cơ quan nhà nước dôi dư sau sắp xếp cho cơ sở giáo dục; cho phép cho thuê công trình thuộc sở hữu nhà nước đối với cơ sở giáo dục tư thục theo quy định của pháp luật.
Về vai trò của Đại học Quốc gia (Điều 8.7): Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội và Giám đốc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh được giao thẩm quyền, trách nhiệm như của người đứng đầu bộ, cơ quan trung ương trong việc quyết định chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư các chương trình, dự án sử dụng vốn đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước của đơn vị theo quy định của pháp luật về đầu tư công và quản lý, sử dụng tài sản công theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công.