Trong bài viết "Một số vướng mắc của Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng năm 2015", đăng trên Báo Quân đội nhân dân điện tử, Đại tá, Th.S BÙI HOÀNG ANH, Phó cục trưởng Cục Pháp chế Bộ Quốc phòng cho biết: Ngày 30/12/1981, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Nghĩa vụ quân sự thay thế Luật Nghĩa vụ quân sự năm 1960. Trong đó, có một chương (Chương 6) quy định việc phục vụ của quân nhân chuyên nghiệp.
Đây là văn bản luật đầu tiên đưa ra khái niệm quân nhân chuyên nghiẹp tại Điều 45: “Quân nhân chuyên nghiệp là quân nhân có trình độ chuyên môn, kỹ thuật, cần thiết cho các công tác chỉ huy, chiến đấu, bảo đảm chiến đấu xây dựng Quân đội, và tình nguyện phục vụ lâu dài trong Quân đội”. Đồng thời, quy định về địa vị pháp lý, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, chức trách của Quân nhân chuyên nghiệp trong hệ thống pháp luật nước ta.
Cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng, Hiến pháp năm 2013; cùng với sự lớn mạnh, phát triển không ngừng của Quân đội nhân dân Việt Nam; để có hành lang pháp lý làm cơ sở xây dựng đội ngũ quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng có bản lĩnh chính trị vững vàng, phát huy tinh thần yêu nước, lòng dũng cảm, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh cho công cuộc bảo vệ Tổ quốc, nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao; góp phần xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, tại Kỳ họp thứ mười, Quốc hội khóa XIII năm 2015 đã thông qua Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng (sau đây viết gọn là Luật).
Luật là cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng đội ngũ quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng lớn mạnh và trưởng thành trong Quân đội ta.
Qua gần 10 năm thực hiện, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, trực tiếp là sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, đội ngũ quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng được xây dựng cơ bản đủ về số lượng, có cơ cấu hợp lý, chất lượng ngày càng cao, thực sự là lực lượng nòng cốt của đội ngũ chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ bảo đảm cho công tác lãnh đạo, chỉ huy, quản lý; thực hiện nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu, phục vụ chiến đấu và các nhiệm vụ khác của Quân đội góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, để đạt được mục tiêu: “Xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, tạo tiền đề vững chắc phấn đấu đến năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại” theo Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 17/1/2022 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 230-NQ/QUTW ngày 2/4/2022 của Quân ủy Trung ương về lãnh đạo thực hiện tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021-2030 và những năm tiếp theo với nhiều yêu cầu đặt ra; trong đó, cần nghiên cứu, làm rõ những khó khăn, vướng mắc và đề xuất biện pháp khắc phục trong việc đào tạo, bố trí sử dụng quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng vào các vị trí chức danh, vị trí việc làm và chức danh nghề nghiệp theo tổ chức biên chế; trong đó nâng trình độ đào tạo đầu vào một số vị trí đòi hỏi nâng từ sơ cấp lên trung cấp, một số ngành nâng từ trung cấp lên cao đẳng, đại học...
Qua gần 10 năm thực hiện, Luật đã bộc lộ một số vướng mắc, bất cập; mặt khác, những năm vừa qua, Quốc hội đã thông qua nhiều dự án luật có liên quan như: Bộ luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm y tế, Luật Lực lượng dự bị động viên và gần đây nhất là Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, Luật Phòng không nhân dân, Luật Lực lượng tham gia gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc...
Theo đó, một số chính sách, quy định đối với quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng cần được nghiên cứu, đánh giá; báo cáo, đề xuất cấp có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, về việc tuyển dụng, tuyển chọn quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng; quân hàm của quân nhân chuyên nghiệp: Theo quy định hiện hành, hạ sĩ quan, binh sĩ khi hết thời hạn thực hiện nghĩa vụ quân sự mới xét tuyển chọn quân nhân chuyên nghiệp.
Tuy nhiên, đối với các trường hợp hạ sĩ quan, binh sĩ có trình độ cao đẳng, đại học trở lên, nếu chờ đến khi hết thời hạn nghĩa vụ quân sự mới xét, tuyển chọn quân nhân chuyên nghiệp sẽ gây lãng phí nguồn nhân lực.
Bên cạnh đó, quân hàm quân nhân chuyên nghiệp có cấp bậc quân hàm từ thiếu úy đến thượng tá, chưa có cấp Đại tá quân nhân chuyên nghiệp để xét thăng cho các chức danh đòi hỏi trình độ chuyên môn cao; quy định phong, thăng quân hàm quân nhân chuyên nghiệp khi được tuyển chọn, tuyển dụng, đặc biệt là việc xếp lương, phong quân hàm khi tuyển dụng QNCN, CN-VCQP; được thăng cấp bậc quân hàm khi được nâng bậc lương để có mức lương tương ứng với mức lương của cấp bậc quân hàm cao hơn (phong, phiên quân hàm theo mức lương). Như vậy, việc phong, thăng quân hàm theo mức lương hiện nay cũng cần nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung.
Thứ hai, về thời hạn và hạn tuổi phục vụ: Quy định hiện hành về thời hạn phục vụ của quân nhân chuyên nghiệp tối thiểu là 6 năm (kể từ ngày chuyển thành quân nhân chuyên nghiệp), thực tế đối với các trường hợp quân nhân có ý thức chấp hành kỷ luật kém, mức độ hoàn thành nhiệm vụ thấp, không yên tâm công tác nếu quy định cứng thời gian phục vụ tối thiểu là 6 năm sẽ gây khó khăn trong công tác quản lý; quân nhân chuyên nghiệp cấp úy khi nghỉ hưu theo hạn tuổi cao nhất hiện nay là 52 tuổi hầu hết chưa đạt 75% lương khi nghỉ hưu, trung bình chỉ đạt từ 71% đến 73%.
Quy định tuổi tối đa của Chiến đấu viên là 40 tuổi đang gây lãng phí nhân lực (nhất là số được đào tạo công phu, có chất lượng cao), trong khi nhiều Chiến đấu viên hết tuổi quy định vẫn đủ sức khỏe và có nguyện vọng tiếp tục công tác.
Điểm a khoản 2 Điều 17 của Luật quy định hạn tuổi phục vụ cao nhất quân nhân chuyên nghiệp theo cấp bậc quân hàm là 52 tuổi đối với cấp úy, 54 tuổi đối với cấp thiếu tá, trung tá, nữ 55 tuổi, nam 56 tuổi đối với cấp thượng tá; tuổi phục vụ của công nhân và viên chức quốc phòng hiện nay là nam 60 tuổi, nữ 55 tuổi.
Việc quy định về hạn tuổi phục vụ cao nhất như trên có nội dung chưa phù hợp với Bộ Luật lao động, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam (được Quốc hội khóa XV thông qua tại Kỳ họp thứ tám tháng 11/2024) và các luật khác có liên quan.
Như vậy, cần phải nghiên cứu, đánh giá để sửa đổi, bổ sung hoặc giữ nguyên như hiện hành và nếu sửa đổi, bổ sung thì theo hướng nào; cần tăng, giảm tuổi ở cấp nào, cụ thể là bao nhiêu... để tận dụng kinh nghiệm, năng lực của số quân nhân chuyên nghiệp có trình độ công tác và bảo đảm quân số tại các đơn vị.
Thứ ba, về chế độ, chính sách: Chính sách nhà ở, đất ở còn nhiều bất cập như phụ cấp nhà và chính sách nhà ở tại địa phương đối với quân nhân chuyên nghiệp nghỉ hưu, nghỉ theo chế độ bệnh binh, phục viên chưa có văn bản quy định chi tiết; số lượng Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng được thụ hưởng nhà ở, đất ở còn thấp so với nhu cầu; chính sách phụ cấp đặc thù của công nhân và viên chức quốc phòng được quy định tại Luật nhưng thực tế chưa được hưởng, do chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện; mức thu nhập của Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng còn thấp chưa tương xứng với thời gian lao động và tính chất lao động đặc biệt.
Khoản 1 Điều 22 Luật quy định thời gian tối thiểu để giải quyết chế độ hưu trí là 20 năm đóng Bảo hiểm xã hội; Luật Bảo hiểm xã hội số 41/2024/QH15 quy định giảm số năm đóng Bảo hiểm xã hội tối thiểu đối với các trường hợp đóng Bảo hiểm xã hội bắt buộc từ 20 năm xuống còn 15 năm, theo đó cần nghiên cứu, đánh giá tác động nếu giảm số năm đóng Bảo hiểm xã hội từ 20 năm xuống còn 15 năm của quân nhân chuyên nghiệp như quy định của Luật Bảo hiểm xã hội 2024 có phù hợp không?
Đặc biệt, hiện nay, đội ngũ Chiến đấu viên đang công tác dưới tàu ngầm, trên xe tăng, thiết giáp, tổ, đội đặc công người nhái, đặc công nước, chống khủng bố... có độ tuổi từ 40 trở lên chiếm tỷ lệ trên 40%, nếu quy định tuổi phục vụ 40 tuổi và đủ 15 năm đóng bảo hiểm được nghỉ hưu thì rất lãng phí, vì đội ngũ này được tuyển chọn, đào tạo công phu nhất là chiến đấu viên thủy thủ tàu ngầm (Quân chủng Hải quân).
Đồng thời, cũng đòi hỏi các cơ quan chức năng xây dựng chính sách để các đối tượng của Luật khi nghỉ hưu có đủ số năm công tác theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội.
Những vấn đề trên đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu, đánh giá kỹ các chính sách, các quy định của Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng năm 2015 và văn bản pháp luật có liên quan; báo cáo, đề xuất cấp có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu tình hình hiện nay; góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về quân sự, quốc phòng, nâng cao sức mạnh sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Trong thời gian nghiên cứu, đề xuất sửa đổi Luật, cơ quan chức năng cần tiếp tục quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI về xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại; đến năm 2025 cơ bản xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, làm tiền đề vững chắc để từ năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; không ngừng nâng cao hơn nữa chất lượng nguồn nhân lực của đội ngũ Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng làm công tác chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ bảo đảm phục vụ thiết thực, có hiệu quả cho công tác lãnh đạo, chỉ huy, quản lý; thực hiện nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu, phục vụ chiến đấu và các nhiệm vụ khác của Quân đội; góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.