Hội nghị được tổ chức bằng hình thức trực tiếp từ điểm cầu Trung ương ở Hội trường Diên Hồng, Nhà Quốc hội; kết hợp trực tuyến đến 15.345 điểm cầu, với 978.532 đại biểu tham dự ở các Đảng ủy trực thuộc Trung ương; các cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng ở Trung ương, Ban cán sự đảng các bộ, ngành, đơn vị, Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội; các tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương… Hội nghị cũng được truyền hình trực tiếp trên kênh VTV1 Đài Truyền hình Việt Nam.
Tổng Bí thư Tô Lâm tới dự, chỉ đạo Hội nghị tại điểm cầu Trung ương.
Cùng dự ở điểm cầu Trung ương có: Nguyên Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh; Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Lương Cường; Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính; Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn; nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng; Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương Trần Cẩm Tú; các nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Thường trực Ban Bí thư: Phan Diễn, Trần Quốc Vượng và một số Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Ủy viên Ban Bí thư; đại biểu là các nhà khoa học, trí thức, doanh nghiệp về khoa học công nghệ hàng đầu trong và ngoài nước, giảng viên, sinh viên xuất sắc tiêu biểu về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết dự tại điểm cầu tỉnh Bình Dương; nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang dự tại điểm cầu tỉnh Long An; nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân dự tại điểm cầu Thành phố Hồ Chí Minh.
Các Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng là lãnh đạo chủ chốt các tỉnh ủy, thành ủy, quân khu, quân chủng dự tại điểm cầu của địa phương, đơn vị mình.
Theo chương trình làm việc, tại Hội nghị, các đại biểu xem trình chiếu phim phóng sự về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; nghe công bố Quyết định thành lập; Quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Chỉ đạo Trung ương; Báo cáo tóm tắt tình hình, kết quả thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số thời gian qua; quán triệt, triển khai tinh thần và nội dung cốt lõi của Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Các đại biểu dự Hội nghị cũng sẽ nghe Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính quán triệt nội dung, tinh thần Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW; Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn trình bày chủ trương, giải pháp về thể chế pháp luật về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Tổng Bí thư Tô Lâm, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia sẽ phát biểu chỉ đạo.
Trước khi diễn ra Hội nghị, Tổng Bí thư Tô Lâm cùng các lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã tham quan các gian hàng giới thiệu các sản phẩm, dịch vụ, giải pháp khoa học-công nghệ do các nhà khoa học và doanh nghiệp khoa học công nghệ trong nước nghiên cứu, phát triển, được thương mại hóa ra thị trường nội địa và xuất khẩu sang nhiều thị trường lớn trên thế giới.
Hội nghị nhằm đánh giá tình hình thực hiện các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về phát triển khoa học, công nghệ, quán triệt, triển khai Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, tạo sự chuyển biến mang tính đột phá về nhận thức và tổ chức thực hiện, góp phần đưa đất nước phát triển giàu mạnh.
Đồng thời, yêu cầu việc quán triệt, triển khai thực hiện các nhiệm vụ về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia được tiến hành bài bản, khoa học, lâu dài, thông suốt, hiệu quả, tạo sự thống nhất cao trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân và xã hội.
Nghị quyết 57-NQ/TW được Bộ Chính trị ban hành ngày 22/12/2024, nhấn mạnh phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đang là yếu tố quyết định phát triển của các quốc gia; là điều kiện tiên quyết, thời cơ tốt nhất để nước ta phát triển giàu mạnh, hùng cường trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Nghị quyết cũng nêu 7 nhóm nhiệm vụ, giải pháp, trong đó nhấn mạnh nâng cao nhận thức, đột phá về đổi mới tư duy, xác định quyết tâm chính trị mạnh mẽ, quyết liệt lãnh đạo, chỉ đạo, tạo xung lực mới, khí thế mới trong toàn xã hội về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số được thành lập, do Tổng Bí thư Tô Lâm làm Trưởng Ban.
Thành lập Hội đồng Tư vấn quốc gia về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số với sự tham gia của các chuyên gia trong và ngoài nước.
Nhiều chuyên gia cho rằng Nghị quyết 57-NQ/TW là luồng gió mới, soi rọi con đường vươn lên phía trước của dân tộc Việt Nam. Đó là chỉ có đi vào các công nghệ cao, chuyển đổi số mạnh mẽ, Việt Nam mới có thể tiến nhanh, tiến mạnh và vững chắc để giàu mạnh hùng cường, ngẩng cao đầu và sánh vai với các nước năm châu.
Chính phủ ban hành Nghị quyết số 03/NQ-CP Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Nhằm đạt được mục tiêu Nghị quyết số 57-NQ/TW đề ra, Chính phủ yêu cầu trong thời gian tới, bên cạnh các nhiệm vụ thường xuyên, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần cụ thể hóa và tổ chức triển khai thực hiện 7 nhiệm vụ sau:
Chính phủ yêu cầu các Bộ ngành, địa phương xây dựng, ban hành quy định trách nhiệm người đứng đầu các cơ quan nhà nước trực tiếp phụ trách, chỉ đạo triển khai nhiệm vụ phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số của cơ quan, tổ chức; quy định về trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện kế hoạch hành động về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số hằng năm; xây dựng nền tảng số, công cụ số để thực hiện đo lường trực tuyến mức độ hoàn thành nhiệm vụ chuyển đổi số.
Xây dựng, nâng cấp nền tảng đào tạo trực tuyến mở đại trà cung cấp miễn phí kiến thức về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, kỹ năng số, công nghệ số cơ bản cho người dân, doanh nghiệp; phát động phong trào thi đua trong toàn quốc để phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, sự tham gia tích cực của doanh nhân, doanh nghiệp và Nhân dân thực hiện thành công cuộc cách mạng chuyển đổi số; chú trọng biểu dương, tôn vinh, khen thưởng khích lệ, động viên kịp thời bằng nhiều hình thức đa dạng cho các nhà khoa học, nhà sáng chế, các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có thành tích trong chuyển đổi số; trân trọng từng phát minh, sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, sáng kiến nâng cao hiệu quả công tác, hiệu suất công việc, dù nhỏ nhất...
Chính phủ yêu cầu các Bộ ngành, địa phương rà soát, tháo gỡ các điểm nghẽn, rào cản về thể chế, chính sách trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và nguồn nhân lực chất lượng cao; hoàn thiện quy định pháp luật để bảo đảm hành lang pháp lý cho hoạt động của mọi ngành, lĩnh vực trên môi trường số; xây dựng, ban hành cơ chế đặc thù về đầu tư, đầu tư công, mua sắm công các sản phẩm là kết quả của nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, sản phẩm, dịch vụ số để đẩy nhanh chuyển đổi số quốc gia.
Sửa đổi quy định pháp luật để tháo gỡ điểm nghẽn trong hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo theo hướng chấp nhận rủi ro, đầu tư mạo hiểm và độ trễ trong nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo.
Sửa đổi Luật Khoa học và Công nghệ (2013) và các luật có liên quan trong dự án xây dựng Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo để: (i) Tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, tạo hành lang pháp lý thuận lợi thúc đẩy khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; (ii) Đơn giản hóa thủ tục hành chính, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong công tác quản lý nhà nước; (iii) Tập trung nguồn lực đầu tư từ ngân sách nhà nước, thu hút đầu tư ngoài ngân sách cho khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Bổ sung các chính sách tháo gỡ điểm nghẽn và hoàn thiện Luật Công nghiệp công nghệ số; xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi và đơn giản hóa thủ tục hành chính về đầu tư trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để thu hút, sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực đầu tư...
Phát triển mạng lưới kết nối các trung tâm đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp sáng tạo, tập trung vào các công nghệ chiến lược và chuyển đổi số; thực hiện các chương trình, dự án thúc đẩy các lĩnh vực công nghệ, đổi mới sáng tạo trọng tâm của Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia.
Phấn đấu đến năm 2030, có ít nhất 05 dự án, chương trình trong lĩnh vực bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, công nghệ số, nhà máy thông minh, đô thị thông minh... được triển khai.
Xây dựng chính sách ưu đãi về thuế đối với các hoạt động đầu tư, mua, thuê các sản phẩm, dịch vụ số; xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp đầu tư, xây dựng các phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu và phát triển khoa học, công nghệ.
Xây dựng ngành công nghiệp Internet vạn vật (IoT) và một số khu công nghiệp chuyên biệt phát triển IoT; chuyển đổi số các khu công nghiệp, cụm công nghiệp theo hướng tăng cường ứng dụng Internet vạn vật (IoT) để trở thành khu công nghiệp, cụm công nghiệp thông minh; thúc đẩy, phát triển một số ngành, lĩnh vực ứng dụng công nghiệp Internet vạn vật (IoT) như sản xuất, thương mại, năng lượng, nông nghiệp, giao thông, y tế,...; Chuyển đổi số các khu công nghiệp, cụm công nghiệp theo hướng tăng cường ứng dụng Internet vạn vật (IoT) để trở thành khu công nghiệp, cụm công nghiệp thông minh.
Hoàn thiện hành lang pháp lý đẩy mạnh ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong các giải pháp phát triển các ứng dụng công nghệ số trong ngành, lĩnh vực, địa phương, gắn với công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực bảo đảm theo hướng đi tắt, đón đầu.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp tăng cường giáo dục và hướng nghiệp STEM, thu hút học sinh giỏi theo học các ngành STEM; xây dựng và triển khai các chính sách phát hiện và bồi dưỡng tài năng STEM từ sớm, quy hoạch và đầu tư nâng cấp, mở rộng hệ thống trường chuyên, trường năng khiếu về khoa học tự nhiên.
Rà soát, sửa đổi các quy định về chính sách cấp học bổng, miễn giảm học phí cho sinh viên, học viên các ngành STEM phục vụ phát triển công nghệ chiến lược, những người tham gia các chương trình đào tạo kỹ sư an ninh mạng, vật liệu tiên tiến từ nguồn ngân sách nhà nước.
Triển khai các chương trình đào tạo kỹ sư, thạc sĩ và tiến sĩ tài năng trong các ngành khoa học cơ bản, các ngành kỹ thuật và công nghệ then chốt phục vụ phát triển công nghệ chiến lược; các chương trình đào tạo, đào tạo lại đội ngũ kỹ thuật viên, đào tạo nghề chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu ứng dụng công nghệ mới, công nghệ cao; tập trung đầu tư xây dựng một số cơ sở giáo dục đại học, trung tâm đào tạo tiên tiến chuyên sâu về trí tuệ nhân tạo và các lĩnh vực công nghệ chiến lược khác.
Đồng thời, rà soát, sửa đổi quy định về thuế thu nhập doanh nghiệp theo hướng loại bỏ đối tượng áp dụng là các cơ sở giáo dục đại học công lập, cơ sở giáo dục đại học tư thục không vì lợi nhuận; sửa đổi các quy định về quản lý, sử dụng tài sản công theo hướng giao quyền tự chủ cao cho các cơ sở giáo dục đại học công lập; rà soát, sửa đổi các quy định về ưu đãi thuế và tín dụng cho các hoạt động đầu tư, tài trợ, hợp tác đào tạo và nghiên cứu của doanh nghiệp với các cơ sở giáo dục đại học, tổ chức khoa học và công nghệ công lập...
Đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ để xây dựng các cơ sở khoa học nhằm trợ giúp việc ra quyết định trong hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước; xây dựng mô hình Trung tâm giám sát điều hành thông minh nhằm tăng cường quản lý công, nâng cao hiệu lực quản trị, hiệu quả điều hành của các cấp chính quyền; thực hiện chỉ đạo, điều hành của cơ quan nhà nước trực tuyến, dựa trên dữ liệu; nâng cao tương tác giữa chính quyền và người dân giúp giảm quan liêu của bộ máy nhà nước; giám sát trực tuyến và toàn diện, kịp thời cảnh báo, phát hiện sớm để phòng chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí.
Nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình; cung cấp dịch vụ số mới được cá nhân hóa, dựa trên dữ liệu cho người dân và doanh nghiệp; cung cấp dịch vụ công không phụ thuộc địa giới hành chính.
Phát triển và làm chủ công nghệ các nền tảng số trong nước đảm bảo an toàn, nhiều tiện ích cho người dân; phổ cập nhanh các dịch vụ số thiết yếu cho người dân; xây dựng kế hoạch để mỗi người dân có danh tính số, phương tiện số, kỹ năng số và tài khoản số, hình thành công dân số.
Phát triển các ứng dụng trí tuệ nhân tạo hỗ trợ phân tích, cảnh báo thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường, hỗ trợ phân tích, cảnh báo về nguy cơ quốc phòng - an ninh, trật tự an toàn xã hội...
Rà soát, xây dựng chính sách ưu đãi, khuyến khích các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, hộ kinh doanh đầu tư cho chuyển đổi số, nghiên cứu, ứng dụng khoa học, đổi mới công nghệ để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, quản trị doanh nghiệp; xây dựng quy định về lập các cơ sở nghiên cứu chính sách về công nghệ số, chuyển đổi số tại các doanh nghiệp để nghiên cứu, ứng dụng, hợp tác chuyển giao những thành tựu công nghệ số hiện đại từ nước ngoài vào trong nước.
Xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp công nghệ số, tổ chức, cá nhân có năng lực, thực hiện các nhiệm vụ trọng điểm về chuyển đổi số; chính sách hỗ trợ, phát triển các doanh nghiệp công nghệ số khai thác tốt thị trường chuyển đổi số trong nước vươn ra toàn cầu; thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Xây dựng cơ chế thu hút doanh nghiệp công nghệ hàng đầu thế giới đặt trụ sở, đầu tư nghiên cứu, sản xuất tại Việt Nam theo nguyên tắc: sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực Việt Nam đang ưu tiên; có phát triển công nghiệp phụ trợ tại Việt Nam; có đầu tư Trung tâm nghiên cứu và phát triển tại Việt Nam với tỷ lệ 1% - 3% doanh thu.
Xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ, phát triển các doanh nghiệp công nghệ số khai thác tốt thị trường chuyển đổi số trong nước, làm cơ sở vươn ra toàn cầu; xây dựng chính sách đủ mạnh khuyến khích tinh thần khởi nghiệp về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, cùng với chính sách hỗ trợ khởi nghiệp và thu hút các doanh nghiệp trong và ngoài nước khởi nghiệp tại Việt Nam.
Đẩy mạnh hợp tác quốc tế đa phương, song phương với các quốc gia, vùng lãnh thổ, các tập đoàn đa quốc gia có trình độ khoa học, công nghệ, chuyển đổi số phát triển, các tổ chức quốc tế, các viện nghiên cứu hàng đầu thế giới về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; Học tập kinh nghiệm quốc tế, kịp thời ứng dụng các thành tựu, kinh nghiệm quốc tế phù hợp với thực tiễn và điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội Việt Nam; đẩy mạnh ngoại giao công nghệ, thu hút các nguồn lực bên ngoài, góp phần đảm bảo an ninh kinh tế, nâng cao tự chủ về công nghệ.
Tích cực, chủ động tham gia định hình các khuôn khổ, quy tắc, quản trị về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong các cơ chế hợp tác đa phương; nghiên cứu khả năng tham gia các cơ chế, sáng kiến hợp tác mới về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Xây dựng Đề án Việt Nam chủ động tham gia vào các tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế. Có cơ chế xây dựng đội ngũ chuyên gia tham gia vào các vị trí lãnh đạo các tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế, tham gia các Ban kỹ thuật tiêu chuẩn của một số lĩnh vực liên quan đến phát triển công nghệ chiến lược; tích cực tham gia, cử các nhà khoa học tham gia vào các tổ chức khoa học và công nghệ quốc tế trên thế giới, đặc biệt là các tổ chức khoa học và công nghệ của Liên hợp quốc...
Việc thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia được kỳ vọng tạo nên một bước ngoặt tương tự như “Khoán 10” trong nông nghiệp trước đây, giải phóng sức sáng tạo của toàn xã hội.
Ngày 22/12/2024, Tổng Bí thư Tô Lâm ký ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Nghị quyết nêu rõ: "Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là đột phá quan trọng hàng đầu, là động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới".
Tiếp đó, ngày 9/1/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 03/NQ-CP Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 57, thể hiện rõ quyết tâm đưa khoa học công nghệ (KHCN) và đổi mới sáng tạo trở thành động lực chủ yếu thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội.
Theo yêu cầu của Chính phủ, bên cạnh các nhiệm vụ thường xuyên, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần cụ thể hóa và tổ chức triển khai thực hiện 7 nhiệm vụ như: Nâng cao nhận thức, đột phá về đổi mới tư duy, xác định quyết tâm chính trị mạnh mẽ, quyết liệt lãnh đạo, chỉ đạo, tạo xung lực mới, khí thế mới trong toàn xã hội về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Đồng thời khẩn trương, quyết liệt hoàn thiện thể chế; xoá bỏ mọi tư tưởng, quan niệm, rào cản đang cản trở sự phát triển; đưa thể chế thành một lợi thế cạnh tranh trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số...
Trao đổi với Báo điện tử Chính phủ, các nhà khoa học, chuyên gia nhận định Nghị quyết 57 là lời hiệu triệu, là mệnh lệnh đối với toàn thể đội ngũ trí thức, nhà khoa học trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài, cũng như mọi tầng lớp nhân dân tham gia nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ mới và chuyển đổi số nhằm phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia, phục vụ phát triển kinh tế-xã hội đất nước.
Nghị quyết đi thẳng vào những vấn đề rất mới của thời đại như: Dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, blockchain, Internet vạn vật (IoT), cơ chế thử nghiệm có kiểm soát các công nghệ mới… để thúc đẩy nhanh nhất, đưa các sản phẩm công nghệ mới, công nghệ chiến lược vào cuộc sống.
Đồng thời đặt ra những yêu cầu rất quyết liệt trong việc tháo gỡ các điểm nghẽn, rào cản về thể chế, cũng như đưa ra những giải pháp mạnh mẽ nhằm giải phóng sức sáng tạo của các nhà khoa học và người dân.
Bày tỏ kỳ vọng lớn vào Nghị quyết 57 và Chương trình hành động của Chính phủ, PGS.TS Vũ Văn Tích, Giám đốc Học viện Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo (Bộ KH&CN) ví đây như là "khoán 10" trong khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Theo PGS.TS Vũ Văn Tích, nếu Khoán 10 trong nông nghiệp trước đây đã tạo nên một cuộc cách mạng chuyển từ cơ chế bao cấp sang kinh tế thị trường thì Nghị quyết 57 có thể tạo nên sự đột phá về mô hình sản xuất mới dựa trên khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
"Nghị quyết 57 xác định KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là động lực chính thúc đẩy mô hình và phương thức sản xuất kiểu mới. Quan điểm và mục tiêu Nghị quyết đề ra sẽ tác động rất mạnh không chỉ với cộng đồng nhà khoa học, mà là toàn xã hội", PGS.TS Vũ Văn Tích bày tỏ.
Theo PGS.TS Vũ Văn Tích, Nghị quyết 57 hướng đến tháo gỡ các điểm nghẽn về thể chế và chính sách cho hoạt động KHCN phát triển đúng với vị thế và vai trò của nó, với mong muốn KHCN là lực lượng sản xuất hiện đại; KHCN và đổi mới sáng tạo kết hợp với chuyển đổi số đóng vai trò tạo nên một phương thức sản xuất mới hướng tới sản phẩm đầu ra, đủ sức cạnh tranh với các nền sản xuất của các nước khác trong xuất khẩu hàng hoá thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và mô hình quản trị mới.
Hiện nay, một trong những rào cản lớn nhất đối với nhà khoa học chính là cơ chế tài chính phức tạp và mang nặng tính hành chính. Để được giải ngân kinh phí, nhà khoa học phải hoàn thành hàng loạt thủ tục chứng minh chi tiêu, làm giảm đáng kể thời gian dành cho nghiên cứu thực sự. Chính vì vậy, điểm đột phá của Nghị quyết 57 là thay đổi cách quản lý tài chính công.
Cụ thể, cơ chế quản lý tài chính sẽ chuyển sang hướng đầu tư dựa trên kết quả đầu ra, thay vì kiểm soát chứng từ như hiện nay. Nhà nước sẽ trở thành "nhà đầu tư công" với các mục tiêu rõ ràng, gắn với KPI sản phẩm.
PGS.TS Vũ Văn Tích kỳ vọng, khi cơ chế này được thực thi, những rào cản về tài chính và thủ tục hành chính sẽ được gỡ bỏ, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà khoa học tập trung vào nghiên cứu và sáng tạo, thay vì bị cuốn vào việc hoàn thiện chứng từ như hiện nay.
"Tôi nghĩ điều này sẽ trả lại đúng bản chất đổi mới sáng tạo trong hoạt động KHCN", PGS. TS.Vũ Văn Tích nói.
PGS.TS. Vũ Văn Tích bày tỏ kỳ vọng Nghị quyết 57 sẽ làm thay đổi tư duy của cả nhà quản lý, nhà khoa học, doanh nghiệp và người dân về một nền sản xuất kiểu mới gắn với xu thế chung của thế giới. Đổi mới tư duy lần này sẽ giúp Việt Nam không bị tụt hậu, không bị rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Việc đầu tư mạnh cho chuyển đổi số đồng nghĩa với việc thúc đẩy sản xuất nhanh hơn, đưa hàng hoá tới thị trường rộng hơn, tạo điều kiện cho tăng trưởng GDP ở hai con số.
Khi điểm nghẽn về quy trình quản lý hiện nay được tháo gỡ, cơ chế quản lý tài chính hướng tới sản phẩm đầu ra về KHCN hơn là hướng tới chứng từ thì nhiều người có thể làm KHCN (khoa học mở). Các nhà khoa học, doanh nghiệp và các nhà quản lý kết hợp với nhau tạo nên các hệ thống đổi mới sáng tạo khác nhau trong các ngành và trong các vùng miền, khi đó kinh tế sẽ phát triển theo hướng kinh tế sáng tạo và kinh tế đổi mới sáng tạo.
Tuy nhiên, để đạt được các mục tiêu mà Nghị quyết 57 và Chương trình hành động của Chính phủ đề ra, cần triển khai đồng thời Nghị quyết 18 về "Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả" và Nghị quyết 57 trong ngành KHCN, để có con người mới (lực lượng sản xuất hiện đại), sớm thể chế hoá các luật và nghị định mới theo đúng quan điểm chỉ đạo cho phép triển khai thí điểm các cơ chế mới, khi đó mới phù hợp với phương thức sản xuất mới.
Đồng thời đầu tư có trọng tâm và trọng điểm gắn với trách nhiệm người đứng đầu của các tổ chức để có đủ tư liệu sản xuất kiểu mới đạt trình độ tiên tiến trong một số lĩnh vực mà Việt Nam có tiềm năng, gắn chặt với xu thế công nghệ mới của thế giới hiện nay, hướng tới gia tăng giá trị xuất khẩu của hàng hoá Việt Nam, tạo tiền đề và nền tảng cho thu hút đầu tư công nghệ cao của nước ngoài.
Ngoài ra, thúc đẩy chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, kinh tế dựa vào đổi mới sáng tạo. Gắn chặt KPI về đổi mới sáng tạo đối với các tổ chức và người đứng đầu để hướng tới một quốc gia sáng tạo…
Bà Bùi Thị An, nguyên Ủy viên, Uỷ ban Khoa học, công nghệ và môi trường của Quốc hội khoá XIII nhận định một điểm đổi mới quan trọng nhất trong Nghị quyết 57 chính là đổi mới về tư duy. Nghị quyết 57 cho phép "chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học".
Điều này khuyến khích sáng tạo và giảm áp lực về việc mọi đề tài nghiên cứu đều phải thành công như trước đây - một trong những nguyên nhân khiến nhiều công trình nghiên cứu chỉ "nằm trong ngăn kéo".
Bên cạnh đó, Nghị quyết cũng xác định rõ: "Việt Nam từng bước làm chủ các công nghệ chiến lược như trí tuệ nhân tạo, internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn, chuỗi khối, bán dẫn, 5G-6G, công nghệ lượng tử và nano, thông tin vệ tinh và một số công nghệ mới nổi".
Bà Bùi Thị An cho rằng "làm chủ công nghệ" là vô cùng quan trọng. Việc làm chủ công nghệ sẽ giúp Việt Nam độc lập trong nghiên cứu, độc lập trong ứng dụng, giảm phụ thuộc vào công nghệ nước ngoài từ đó sẽ giúp chúng ta tự chủ trong nhiều lĩnh vực trong đó có chủ quyền, an ninh quốc gia và nâng cao sức cạnh tranh.
Theo bà Bùi Thị An, để thực hiện thành công Nghị quyết 57 và Chương trình hành động của Chính phủ, cần được tập trung vào 2 vấn đề: Thể chế và con người. Trong đó, thể chế đã được tháo gỡ phần lớn trong Nghị quyết 57 mà Bộ Chính trị vừa ban hành.
Vấn đề còn lại là xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý và nhà khoa học có tâm, có tầm, có khả năng định hướng chiến lược đúng đắn và thúc đẩy sự phát triển thực chất. Những cán bộ làm khoa học cần tránh bệnh hình thức, tập trung vào các nghiên cứu có tính ứng dụng cao để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội…
Theo các nhà khoa học, chuyên gia, Nghị quyết 57 và Chương trình hành động của Chính phủ không chỉ là một kế hoạch phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đơn thuần mà còn là lời kêu gọi đổi mới tư duy, giải phóng sức sáng tạo của toàn xã hội.
Giống như "Khoán 10" trong nông nghiệp đã từng giúp Việt Nam vượt qua khủng hoảng lương thực, việc thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 57 được kỳ vọng mở ra một kỷ nguyên mới cho KHCN và đổi mới sáng tạo tại Việt Nam.
Điều quan trọng nhất lúc này là sự vào cuộc đồng bộ của các cấp, các ngành và sự tham gia tích cực của toàn xã hội để biến những kỳ vọng thành hiện thực, đưa Việt Nam trở thành quốc gia đổi mới sáng tạo và công nghệ tiên tiến trong khu vực và trên thế giới.
Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia không chỉ khẳng định tầm nhìn chiến lược của Đảng ta mà còn truyền cảm hứng mạnh mẽ, nâng cao ý thức trách nhiệm của các nhà khoa học tiếp tục cống hiến, đóng góp trực tiếp vào sự phát triển của đất nước.
Trao đổi về nội dung, tầm nhìn và ý nghĩa của Nghị quyết số 57, GS.TS.Trần Tuấn Anh, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam khẳng định: Việc Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng ta trong bối cảnh thế giới đang chuyển mình mạnh mẽ do Cách mạng Công nghiệp 4.0.
Nghị quyết đã xác định vai trò của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là động lực then chốt để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng suất lao động và cải thiện năng lực cạnh tranh quốc gia. Tầm nhìn này phù hợp với xu hướng toàn cầu, khi các quốc gia tiên tiến đều coi đây là yếu tố quyết định để vượt qua thách thức và đạt được sự phát triển bền vững.
Nghị quyết đề xuất các cơ chế, chính sách đột phá, ưu tiên và khuyến khích phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo như: Đầu tư tài chính, phát triển nhân lực chất lượng cao, cải cách hành chính và khuyến khích hợp tác công - tư. Tầm nhìn này hướng tới việc tháo gỡ các rào cản lâu nay trong hệ thống, từ đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp và cá nhân phát triển mạnh mẽ hơn.
Việc nhấn mạnh chuyển đổi số quốc gia cho thấy Đảng đã nhận thức rõ rằng Việt Nam cần tận dụng cơ hội từ công nghệ số để phát triển nhanh hơn, thu hẹp khoảng cách với các quốc gia phát triển.
Tầm nhìn chiến lược của Đảng ta tập trung vào phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ và số hóa. Đồng thời, xây dựng một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo là yếu tố cần thiết để thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp và sáng tạo trong xã hội.
Hơn hết, Nghị quyết thể hiện sự nắm bắt kịp thời các xu thế toàn cầu, như toàn cầu hóa, chuyển dịch chuỗi cung ứng và tăng cường cạnh tranh công nghệ giữa các nước, thể hiện tính dự báo và thích ứng với xu thế toàn cầu, hội nhập quốc tế.
Với quan điểm và cách tiếp cận mới, 7 nhóm nhiệm vụ và giải pháp của Nghị quyết 57 đưa ra là sự tổng hòa giữa các yếu tố nền tảng và các yếu tố đột phá.
Trong đó, tư tưởng đột phá về đổi mới tư duy, xác định quyết tâm chính trị mạnh mẽ, quyết liệt lãnh đạo, chỉ đạo được nhấn mạnh ngay đầu tiên trong phần nhiệm vụ giải pháp là yếu tố rất quan trọng, quyết định cho thành công của Nghị quyết.
Nhóm nhiệm vụ về hoàn thiện thể chế, giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tổ chức, cán bộ, tài chính, chuyên môn cho các tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghệ công lập, được sử dụng ngân sách nhà nước thuê chuyên gia, sử dụng tài sản hữu hình và trí tuệ để liên kết, hợp tác với các tổ chức, doanh nghiệp... thực sự sẽ là động lực để phát triển khoa học và công nghệ, sớm đưa những kết quả nghiên cứu vào thực tiễn phát triển kinh tế xã hội.
Các nhóm nhiệm vụ về tăng cường đầu tư, hoàn thiện về hạ tầng, phát triển trọng dụng nhân lực, nhân tài, hợp tác quốc tế đã theo đúng xu thế phát triển về khoa học công nghệ của các nước tiên tiến trên thế giới.
Việc đẩy mạnh hoạt động khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ở các cơ quan trong hệ thống chính trị và cả trong doanh nghiệp sẽ tạo sự đồng bộ, góp phần tạo điều kiện để Việt Nam tận dụng cơ hội từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đưa đất nước phát triển trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình.
Theo GS.TS.Trần Tuấn Anh: Nghị quyết 57-NQ/TW có tính định hướng chiến lược rõ ràng, đặt khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo vào vị trí trung tâm của quá trình phát triển đất nước.
Điều này không chỉ thể hiện sự công nhận mà còn khích lệ, động viên giới trí thức, nhà khoa học cảm thấy tự hào và ý thức trách nhiệm cao hơn, tạo động lực để tiếp tục nỗ lực nghiên cứu và sáng tạo, đóng góp trực tiếp vào sự phát triển quốc gia.
Bên cạnh đó, các cam kết về cơ chế, chính sách ưu tiên như tăng cường đầu tư, cải cách thủ tục hành chính, hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo và thúc đẩy hợp tác giữa các viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp giúp tạo môi trường thuận lợi, thực tiễn hơn cho việc ứng dụng các kết quả nghiên cứu.
Đặc biệt, việc chấp nhận rủi ro và đầu tư mạo hiểm trong nghiên cứu khoa học sẽ cho phép các nhà khoa học mạnh dạn khai phá những ý tưởng và hướng đi mới.
Nghị quyết cũng mở ra không gian sáng tạo cho giới trí thức, nhà khoa học nắm bắt cơ hội lớn trong các lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo, công nghệ sinh học, năng lượng tái tạo, dữ liệu lớn và chuyển đổi số.
GS.TS.Trần Tuấn Anh cho rằng: Để trở thành nhân tố then chốt, giới trí thức, nhà khoa học cần tiếp tục chủ động, sáng tạo, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn và cập nhật kiến thức mới.
Quan trọng nhất là hướng các nghiên cứu của mình vào những vấn đề thực tiễn mà đất nước đang cần như sử dụng hợp lý tài nguyên, phòng tránh thiên tai và bảo vệ môi trường, biến đổi khí hậu, công nghệ sinh học, nông nghiệp công nghệ cao, an ninh lương thực và phát triển bền vững và nhiều lĩnh vực khác,..
Bên cạnh đó, việc truyền đạt kiến thức và kinh nghiệm cho thế hệ trẻ qua giảng dạy, hướng dẫn nghiên cứu là vô cùng cần thiết. Điều này không chỉ giúp lan tỏa tinh thần yêu khoa học mà còn thúc đẩy khát vọng sáng tạo trong cộng đồng.
Đồng thời, các nhà khoa học cũng cần tích cực tham gia vào quá trình xây dựng chính sách, trở thành cầu nối giữa khoa học và các cơ quan hoạch định chính sách. Điều này giúp các chính sách được xây dựng trên cơ sở khoa học, sát với thực tiễn và có tính khả thi.
Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị thể hiện cam kết mạnh mẽ trong việc triển khai các giải pháp đột phá, mang tính cách mạng, để phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, đưa đất nước giàu mạnh trong kỷ nguyên mới.
Đánh giá về ý nghĩa của Nghị quyết số 57, đồng chí Phạm Đại Dương, Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên chia sẻ: Lịch sử phát triển thế giới đã chứng minh vai trò đặc biệt quan trọng của khoa học và công nghệ trong khát vọng vươn mình của mỗi dân tộc. Trong mỗi cuộc cách mạng công nghiệp, quốc gia nào làm chủ khoa học và công nghệ thì quốc gia đó vươn lên dẫn đầu.
Đối với Việt Nam, trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng ta luôn xác định, cùng với giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế - xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Do đó, nhiều chủ trương, cơ chế, chính sách đã được ban hành nhằm thúc đẩy phát triển của khoa học, công nghệ, và sau này là bao gồm đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số của chúng ta chưa đạt được nhiều kết quả kỳ vọng, như Nghị quyết 57 đã chỉ ra.
Nghị quyết 57 thực sự là đột phá để phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, là đột phá quan trọng hàng đầu trong tiến trình vươn mình của dân tộc.
Nghị quyết thể hiện sự quyết tâm của Đảng, giải quyết những vấn đề then chốt, những mong mỏi của giới trí thức, nhà khoa học - đặc biệt là các nhà khoa học trẻ, doanh nghiệp và Nhân dân.
Trao đổi về những đột phát trong Nghị quyết 57, đồng chí Phạm Đại Dương nêu rõ: Đột phá đầu tiên và quan trọng nhất, đó chính là sự quyết tâm của Ban Chấp hành Trung ương, của Bộ Chính trị và theo đó là của cả hệ thống chính trị.
Việc thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, do đồng chí Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng làm Trưởng Ban, và thành lập Hội đồng Tư vấn quốc gia về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số với sự tham gia của các chuyên gia trong và ngoài nước chính là sự cam kết, sự quyết tâm lớn nhất, mạnh mẽ nhất.
Nghị quyết nêu rõ: Tăng cường sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, sự tham gia tích cực của doanh nhân, doanh nghiệp và Nhân dân đối với phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Xác định đây là cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực; được triển khai quyết liệt, kiên trì, đồng bộ, nhất quán, lâu dài với những giải pháp đột phá, mang tính cách mạng.
Vừa qua, đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về tổng kết thực hiện Nghị quyết 18-NQ/TW đã chỉ đạo việc sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy hệ thống chính trị hết sức quyết liệt, mạnh mẽ.
Đồng chí Phạm Đại Dương tin tưởng rằng, khi Tổng Bí thư làm Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, thì sự chuyển biến trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số cũng mạnh mẽ, quyết liệt như thế, thực sự là một cuộc cách mạng.
Đồng thời, Nghị quyết 57 đã chuyển đổi tư duy từ "quản lý" khoa học và công nghệ sang "quản trị" khoa học và công nghệ.
Nghĩa là, Nhà nước giữ vai trò dẫn dắt, thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi nhất; người dân và doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể, nguồn lực, động lực chính; nhà khoa học là nhân tố then chốt cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Quan điểm này đã giải quyết rất nhiều hạn chế lâu nay trong việc phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Thứ nhất, chúng ta chấp nhận cách tiếp cận mở, vận dụng sáng tạo, cho phép thí điểm đối với những vấn đề thực tiễn mới đặt ra.
Thực tiễn luôn biến đổi không ngừng và luôn đặt ra những vấn đề mới. Sáng tạo, khoa học, công nghệ chính là giải quyết những vấn đề mới đó, và đôi khi, dẫn dắt các vấn đề mới phát sinh. ChatGPT, Germini... chính là những ví dụ điển hình của khoa học, công nghệ dẫn đắt các vấn đề mới phát sinh của thực tiễn.
Tuy nhiên, quản lý nhà nước thì thường không kịp thời với các thực tiễn mới đặt ra. Do đó, chấp nhận cách tiếp cận mở, vận dụng sáng tạo, việc cho phép thí điểm để giải quyết những vấn đề mới phát sinh sẽ giúp tăng cường quản trị đất nước, nhưng quan trọng hơn, sẽ tạo nền tảng, hành lang pháp lý để khuyến khích, thúc đẩy đổi mới sáng tạo.
Thứ hai, chúng ta chấp nhận rủi ro, đầu tư mạo hiểm và độ trễ trong nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo. Đây là nội dung không mới trong các nước phát triển, nhưng lần đầu tiên chúng ta chấp nhận việc này. Điều này sẽ khai phóng tư duy, đưa những ý tưởng mới vào nghiên cứu, nhất là khi sử dụng nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước.
Thứ ba, và có lẽ cũng quan trọng nhất, đó là Nhà nước giữ vai trò dẫn dắt, thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi nhất; Người dân và doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể, nguồn lực, động lực chính. Nguồn lực Nhà nước thì hữu hạn, nhưng nguồn lực, nhất là nguồn lực tư duy, nguồn lực sáng tạo, nguồn lực khát vọng và đam mê trong xã hội thì vô cùng tận.
Thực tiễn trên thế giới cũng cho thấy, các sáng tạo, đột phá thường đến từ xã hội và chỉ một phần đến từ đầu tư của Nhà nước. Nhà nước chỉ khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi, để nghiên cứu khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các kết quả nghiên cứu đó.
Việc chúng ta khơi thông nguồn lực xã hội trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, tạo thành phong trào trong toàn xã hội sẽ là yếu tố quyết định thành công cho cuộc cách mạng này.
Ngoài ra, Nghị quyết 57 cũng đã chỉ ra những mục tiêu, những nhiệm vụ giải pháp hết sức cụ thể, thể hiện quyết tâm mạnh mẽ từ Đảng, Nhà nước. Đây sẽ là những yếu tố thúc đẩy, nhất là trong giai đoạn đầu, cho mục tiêu phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Chia sẻ về ý nghĩa của Nghị quyết 57 đối với sự phát triển của các địa phương trong đó có tỉnh Phú Yên, đồng chí Phạm Đại Dương cho rằng: Nghị quyết đề cập, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là đột phá quan trọng hàng đầu, là động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới.
Để cả nước có thể thực hiện thành công mục tiêu này, thì mỗi địa phương trong cả nước nói chung, Phú Yên nói riêng phải nhận thức rõ quan điểm này để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện hiệu quả.
Tuy nhiên, mỗi địa phương cần phải xác định được khả năng, tiềm năng của mình để có cách tiếp cận, cụ thể hoá việc triển khai Nghị quyết 57 trên địa bàn mình một cách phù hợp.
Các địa phương lớn như: Hà Nội, TPHCM, Đà Nẵng ... với nguồn lực xã hội dồi dào, nhất là nguồn nhân lực khoa học, công nghệ chất lượng cao thì sẽ có những cách tiếp cận mạnh mẽ, mang tính sáng tạo, dẫn dắt cho cả nước. Cũng có những địa phương sẽ tiếp cận cách đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, các tiến bộ khoa học kỹ thuật...
Đối với Phú Yên, tỉnh xác định nông nghiệp là nền tảng, du lịch là mũi nhọn và công nghiệp là đột phá. Với xuất phát điểm kinh tế chưa bằng các địa phương khác trong cả nước, cần nhiều nguồn lực đầu tư phát triển.
Do đó, trọng tâm của Phú Yên là thúc đẩy chuyển đổi số, xây dựng nền hành chính quản trị hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, nâng cao chất lượng môi trường đầu tư kinh doanh; tập trung thu hút các nhà đầu tư lớn, sử dụng công nghệ mới, thân thiện với môi trường.
Hiện nay, Phú Yên đang thu hút đầu tư khu công nghiệp công nghệ cao và khu công nghiệp ứng dụng công nghệ thông minh, công nghệ số.
Phú Yên cũng thúc đẩy ứng dụng khoa học, công nghệ trong nông nghiệp, nâng cao năng suất, chất lượng cây, vật nuôi. Tập trung công tác quy hoạch và triển khai nuôi trồng thuỷ hải sản bền vững, nhất là ở vùng biển hở, xa bờ với các công nghệ mới trong nuôi trồng, thu hoạch, chế biến... gắn với phát triển kinh tế biển. Triển khai các giải pháp ứng dụng công nghệ số trong phát triển du lịch để quảng bá, giới thiệu và đưa du lịch Phú Yên vươn tầm thế giới.
Trong quản trị đô thị, Phú Yên định hướng xây dựng Thành phố Tuy Hoà là thành phố thông minh, có rừng trong phố và là một trong những đô thị sạch nhất cả nước, coi đây là trung tâm thử nghiệm, lan toả các công nghệ quản trị trong cả tỉnh.
Những định hướng và hành động này sẽ giúp Phú Yên đưa Nghị quyết 57 đi vào cuộc sống, thúc đẩy sự phát triển chung của đất nước.
Có thể nói rằng, Nghị quyết 57 thực sự là tạo sự đột phá trong nhận thức, tầm nhìn và giải pháp để phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Đồng chí Phạm Đại Dương nhấn mạnh: Với sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị, sự chỉ đạo quyết liệt, mạnh mẽ của Tổng Bí thư, trong thời gian tới, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia sẽ có những bước tiến mạnh mẽ, trở thành động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.
Theo Thứ trưởng Bùi Thế Duy: Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị tạo động lực lớn cho hệ thống chính trị, nhà khoa học, doanh nghiệp, người dân.
Có thể coi Nghị quyết là một cuộc cách mạng thay đổi từ nhận thức đến nội dung, phương thức làm việc trong các cơ quan quản lý nhà nước.
Hiện nay, xã hội vẫn còn các nguồn lực chưa thực sự được giải phóng, còn những điểm nghẽn về nhận thức, thể chế. Nghị quyết số 57 như một mũi nhọn tập trung vào việc tháo gỡ các điểm nghẽn để giải phóng sức sáng tạo, sức lao động, giải phóng nguồn lực đầu tư của toàn xã hội cho khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Trong Nghị quyết số 57, Bộ Chính trị đã đưa ra những quan điểm rất đổi mới để tháo gỡ các điểm nghẽn.
Ví dụ, quan điểm xác định đầu tư cho khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là đầu tư lâu dài, không phải đầu tư ngắn hạn, tức là có độ trễ, rủi ro. Đồng thời đây là yêu cầu bắt buộc để phát triển đất nước, đưa Việt Nam thực hiện các mục tiêu đặt ra đến năm 2030 và 2045.
Ngoài ra, Nghị quyết cũng nhấn mạnh quan điểm thúc đẩy sự hợp tác công tư, giữa các viện nghiên cứu, trường đại học với các doanh nghiệp. Cùng với đó là các quan điểm bắt kịp xu hướng của thế giới về khoa học công nghệ và chuyển đổi số như coi dữ liệu là một nguồn tài nguyên mới, tư liệu sản xuất mới, chuyển đổi số là để đổi mới phương thức sản xuất kinh doanh, đổi mới lực lượng sản xuất...
Theo Thứ trưởng Bùi Thế Duy, sự ra đời của Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị là tín hiệu rất vui không chỉ với riêng cộng đồng khoa học và công nghệ, cộng đồng làm chuyển đổi số mà còn cho tất cả người dân, doanh nghiệp trong bối cảnh cả nước đang nỗ lực, phấn đấu để đạt được mục tiêu đặt ra đến năm 2030 và 2045.
Thứ trưởng Bùi Thế Duy cho rằng, nội dung Nghị quyết mang tính hành động rất cao, như lời hiệu triệu bộ máy chính trị, xã hội, người dân, doanh nghiệp cùng vào cuộc, có hành động cụ thể.
Mục tiêu chính của Nghị quyết tập trung vào việc giải phóng sức sáng tạo, sức lao động, giải phóng các nguồn lực khác nhau của xã hội để tập trung cho phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, đổi mới phương thức làm việc, tích lũy tư liệu sản xuất mới dựa trên dữ liệu, từ đó đưa Việt Nam nhanh chóng trở thành quốc gia có thu nhập cao, phát triển bền vững.
Nghị quyết số 57 chọn cách đi vào những vấn đề rất mới của thời đại như dữ liệu, trí tuệ nhân tạo, blockchain, IoT, cơ chế thử nghiệm có kiểm soát các công nghệ mới để thúc đẩy nhanh nhất, đưa các sản phẩm công nghệ mới, công nghệ chiến lược vào cuộc sống.
Nghị quyết số 57 cũng giao nhiệm vụ cụ thể cho tất cả cấp ủy, các bộ, ngành, địa phương, cần tự rà soát lại tất cả các thể chế, chính sách.
Ví dụ, hệ thống các tổ chức khoa học công nghệ công lập cũng phải tự đánh giá lại, rà soát để sáp nhập, giải thể những tổ chức hoạt động chưa hiệu quả. Từ đó, đầu tư trọng tâm, trọng điểm, hình thành các tổ chức khoa học công nghệ mạnh hơn, tập trung nguồn lực đầu tư cho hạ tầng số, hạ tầng viễn thông, hạ tầng khoa học công nghệ để thúc đẩy phát triển đất nước.
Về những lợi thế gì trong việc triển khai Nghị quyết số 57, Thứ trưởng Bùi Thế Duy chia sẻ: Tổng Bí thư làm Trưởng Ban chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Do vậy, Nghị quyết số 57 sẽ huy động được toàn bộ hệ thống chính trị vào cuộc. Đây là một trong những lợi thế đầu tiên để triển khai Nghị quyết số 57.
Bên cạnh đó, nguồn nhân lực của Việt Nam có thế mạnh trong các ngành kỹ thuật, toán học, CNTT, đây là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ số trong giai đoạn hiện nay.
Hơn nữa, Việt Nam cũng có thị trường lớn, đóng vai trò "bà đỡ" cho các sản phẩm khoa học công nghệ mới, cho các sản phẩm chuyển đổi số.
Ngoài ra, vị thế địa chính trị của Việt Nam hiện nay trên trường quốc tế, việc tham gia các hiệp định thương mại tự do và mối quan hệ đối tác quốc tế cũng mang lại cơ hội lớn cho việc triển khai Nghị quyết 57.
Thứ trưởng Bùi Thế Duy chia sẻ thêm: Nghị quyết 57 tạo ra động lực cho các cán bộ quản lý, nhà khoa học, doanh nghiệp, người dân. Tuy nhiên thách thức đặt ra trước mắt rất lớn, rất nhiều.
Đầu tiên là làm sao để đưa Nghị quyết số 57 đi vào cuộc sống. Thách thức thứ hai là tốc độ, thời gian để triển khai Nghị quyết. Trong bối cảnh thế giới phát triển rất nhanh, khoa học công nghệ cũng vậy, nếu Nghị quyết không được triển khai nhanh chóng thì rất có thể sẽ lạc hậu.
Thách thức thứ ba là làm sao triển khai rộng rãi đến toàn dân, toàn xã hội, đến tất cả các cấp ủy Đảng một cách thường xuyên, với tốc độ rất cao mới đáp ứng được các mục tiêu đề ra.
Để cụ thể hóa Nghị quyết này thành những thể chế, giải pháp, chắc chắn cách thức làm việc của đội ngũ cán bộ phải thay đổi, tốc độ làm việc phải cao hơn. Không thể như trước đây là sửa luật, nghị định, thông tư theo năm, bây giờ phải tốc độ theo tháng. Hay triển khai các đề án, dự án trước đây có thể theo tháng thì giờ phải theo tuần. Đó là thách thức đối với từng cán bộ, từng cấp ủy Đảng.
Nghị quyết cũng cần được lan tỏa rộng rãi, trở thành hành động cụ thể đối với từng cán bộ quản lý, đảng viên, các cấp ủy, doanh nghiệp, người dân; tạo nên một cuộc cách mạng thay đổi phương thức làm việc.
Trong đó, mọi cá nhân đều phải thay đổi cách thức làm việc, dựa trên dữ liệu, với các hệ thống tự động hóa, trí tuệ nhân tạo cùng các kỹ năng mới như tích lũy, phân tích dữ liệu. Còn nếu chỉ triển khai ở một vài bộ phận hay một vài địa bàn sẽ không tạo ra được sự lan tỏa.
Việc lan tỏa tinh thần Nghị quyết đến từng cấp ủy, cán bộ, doanh nghiệp và người dân đòi hỏi nỗ lực lớn, bởi chỉ khi triển khai đồng bộ, đồng loạt mới tạo được hiệu quả rõ rệt.