Toạ đàm “Kinh tế-xã hội Việt Nam 2021-2025: Chống chịu và bứt phá” được Cổng TTĐT Chính phủ tổ chức chiều 12/11 tại Hà Nội
Giai đoạn 2021-2025 với bao khó khăn, thách thức chất chồng đang dần khép lại. Những khó khăn, thách thức trong nhiệm kỳ này được đánh giá là nhiều hơn và lớn hơn so với cơ hội và thuận lợi, đồng thời nhiều hơn so với giai đoạn 5 năm trước, do những diễn biến phức tạp, khó lường bởi tác động của bối cảnh tình, thiên tai, bão lũ... Có thể khẳng định, đây là một nhiệm kỳ có quá nhiều khác biệt, dị biệt và khắc nghiệt, nhiều vấn đề vượt tầm dự báo.
Trong bối cảnh khắc nghiệt như vậy, dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư..., Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương triển khai quyết liệt, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra, tận dụng tối đa các cơ hội và lợi thế phát triển; ứng phó rất linh hoạt, sáng tạo và hóa giải hiệu quả các khó khăn, thách thức, thậm chí biến "nguy" thành "cơ"... để đưa nền kinh tếphát triển theo xu hướng "Tháng sau cao hơn tháng trước, quý sau tốt hơn quý trước, năm sau tốt hơn năm trước"; đặc biệt là về kinh tế với nền tảng vĩ mô ngày càng được củng cố vững chắc hơn; các cân đối lớn được bảo đảm; tăng trưởng được duy trì và từng bước bứt phá, tăng tốc; lạm phát được kiểm soát tốt theo mục tiêu;... Trong nhiệm kỳ, dự kiến chúng ta đạt và vượt 22/26 chỉ tiêu KT-XH chủ yếu, tạo thế, tạo đà và tạo lực để nước ta vững tin bước vào kỳ nguyên mới, củng cố, tăng cường niềm tin vững chắc của Nhân dân vào Đảng, Nhà nước.
Khái quát lại, có thể dùng hai từ để nói về tình hình kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2025, đó là "chống chịu" và "bứt phá". Đây cũng là chủ đề cuộc tọa đàm Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức với sự tham dự của các vị khách mời là đại biểu Quốc hội, đại diện tổ chức nước ngoài, chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước.
Khách mời tham dự tọa đàm (từ trái sang phải): Đại biểu Quốc hội Phan Đức Hiếu, Ủy viên Ủy ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội; TS. Bùi Sỹ Lợi, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội; Trưởng Đại diện thường trú Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) tại Việt Nam, bà Ramla Khalidi; Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội - Ảnh: VGP/Giang Thanh
Khách mời tham dự tọa đàm gồm:
- Đại biểu Quốc hội Phan Đức Hiếu, Ủy viên Ủy ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội
- Trưởng Đại diện thường trú Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) tại Việt Nam, bà Ramla Khalidi
- TS. Bùi Sỹ Lợi, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội
- GS, TS. Vũ Minh Khương, giảng viên Trường Chính sách công Lý Quang Diệu - Singapore (trực tuyến từ Singapore)
TS. Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, Điều phối chương trình Tọa đàm.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Thưa bà, là Trưởng Đại diện thường trú Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) tại Việt Nam, ở góc độ quốc tế, bà nhìn nhận và đánh giá như thế nào về những thành tựu kinh tế-xã hội Việt Nam trong kỳ 2021-2025? Trong bối cảnh khó khăn chung của kinh tế tế thế giới cũng như những diễn biến phức tạp của tình hình, những thành quả, kết quả nào bà có ấn tượng sâu sắc nhất trong sự tương quan, so sánh với các nước trong khu vực và trên thế giới? Bà đánh giá về tiến độ thực hiện Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Việt Nam như thế nào?
Trưởng Đại diện thường trú Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) tại Việt Nam Ramla Khalidi: Điều ấn tượng hơn cả nằm ở sự lãnh đạo mạnh mẽ và tầm nhìn chiến lược, giúp Việt Nam triển khai hiệu quả các chính sách phát triển kinh tế - Ảnh: VGP/Giang Thanh
Trưởng Đại diện thường trú Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) tại Việt Nam Ramla Khalidi: Từ góc nhìn của UNDP, tôi cho rằng Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ đáng kể, bất chấp những thách thức toàn cầu phải đối mặt. Tôi cho rằng Việt Nam đã có thể biến một số cuộc khủng hoảng và thách thức thành cơ hội cho chính mình.
Một lĩnh vực nổi bật trong các thành tựu là tăng trưởng kinh tế — đạt hơn 7% trong giai đoạn này. Một thành tựu khác mà UNDP đặc biệt ghi nhận là Chỉ số Phát triển Con người (HDI) cao và đang tiếp tục được cải thiện. Đó là một số điểm nổi bật về thành tựu của Việt Nam.
Theo quan điểm của UNDP, điều ấn tượng hơn cả nằm ở sự lãnh đạo mạnh mẽ và tầm nhìn chiến lược, giúp Việt Nam triển khai hiệu quả các chính sách phát triển kinh tế. Ví dụ, Việt Nam đã có thể vượt qua nhiều thách thức, từ đại dịch đến rủi ro liên quan tới các cuộc khủng hoảng và thích ứng với khủng hoảng khí hậu — một vấn đề lớn mà đất nước đang đối mặt — để vươn lên với tinh thần kiên cường và sức mạnh.
Tôi cho rằng hiện nay chúng ta đang bước vào một kỷ nguyên mới, tập trung vào đổi mới sáng tạo, chuyển đổi toàn diện theo hướng kinh tế tuần hoàn, xanh và bao trùm. Tôi rất hoan nghênh tầm nhìn phát triển bền vững của Việt Nam, và cho rằng chúng ta cần tiếp tục đặt yếu tố đó làm trọng tâm. Tôi tin rằng Việt Nam sẽ tiếp tục tập trung vào con người — phát triển con người, phát triển quốc gia và tương lai của đất nước.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Tương tự như vậy, xin được hỏi Đại biểu Quốc hội Phan Đức Hiếu, ông đánh giá như thế nào về khả năng chống chịu của nền kinh tế Việt Nam trong 5 năm qua, nhất là khi so với trước đây, chúng ta hay nói rằng nền kinh tế Việt Nam có sức chống chịu còn hạn chế trước các cú sốc bên ngoài?
Với tư cách là một thành viên của cơ quan lập pháp, giám sát tối cao và cũng là một chuyên gia kinh tế, ông có thể phân tích rõ hơn những thành tựu nổi bật, ấn tượng về kinh tế-xã hội đạt được trong giai đoạn 2021-2025. Để đạt được những kết quả như vậy, theo nhận định của ông, chúng ta đã phải chống chịu, ứng phó và vượt qua những khó khăn, trở ngại gì, thưa ông?
Đại biểu Quốc hội Phan Đức Hiếu: Giai đoạn 2020-2025, khó khăn rất nhiều, nhưng về cơ bản chúng ta đều đã có giải pháp khi gặp cú sốc và khó khăn - Ảnh: VGP/Giang Thanh
Đại biểu Quốc hội Phan Đức Hiếu: Một câu hỏi rất giống với câu hỏi dành cho đại diện của UNDP. Tuy nhiên, tôi muốn chia sẻ góc nhìn về điều mà chúng ta, đặc biệt là TS. Nguyễn Sĩ Dũng, đã băn khoăn rất nhiều, đó là khả năng chống chịu của nền kinh tế. Nói cách khác, đó là phát triển, tăng trưởng nhưng phải bền vững. Các đại biểu Quốc hội như TS. Nguyễn Sĩ Dũng, TS. Bùi Sỹ Lợi và tôi đều nhớ rất rõ khi trình bày báo cáo kinh tế - xã hội tại phiên khai mạc kỳ họp Quốc hội mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã khẳng định trong giai đoạn 2021-2025, kinh tế Việt Nam đủ sức chống chịu trước các cú sốc bên ngoài. Vậy điều này thể hiện như thế nào? Tôi thấy có hai khía cạnh.
Thứ nhất, chúng ta đủ sức vì năng lực nội tại của nền kinh tế đã cải thiện rất mạnh mẽ trong giai đoạn 2021-2025 so với giai đoạn trước đây. Các số liệu đã cho thấy điều này, tôi chỉ điểm lại. Một là, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn này, nếu năm 2025 đạt 8% theo tính toán của Chính phủ, tăng trưởng bình quân giai đoạn này sẽ là 6,3%, cao hơn giai đoạn trước đó mặc dù giai đoạn 2021-2025 là một giai đoạn rất khó khăn và thách thức so với nhiều năm trước.
Thứ hai, quy mô nền kinh tế của chúng ta cũng đã tăng, từ đầu năm đến nay, tăng từ 364 tỷ USD lên khoảng 510 tỷ USD. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu và thặng dư thương mại cũng cải thiện rõ rệt so với các giai đoạn trước. Dự trữ ngoại hối, xuất nhập khẩu hàng hóa..., một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô cơ bản được kiểm soát.
Về các cú sốc, tôi nêu một số ví dụ cụ thể. Như chuyên gia của UNDP đã nói, đầu tiên là COVID-19. Đây là cú sốc đầu tiên. Chúng ta đã vượt qua và chống chịu như thế nào thì chúng ta đều biết. Chúng ta đã có nguồn lực hỗ trợ người dân và doanh nghiệp, thực hiện ngoại giao vaccine để đảm bảo an toàn sức khỏe cho người dân. Ngay sau đó, chúng ta có một loạt chương trình phục hồi, phát triển kinh tế để vượt qua khó khăn.
Cú sốc thứ hai là xu hướng đưa đầu tư quay trở lại nước mình (reshoring). Nhiều người quan ngại Việt Nam sẽ thu hút đầu tư nước ngoài như thế nào và có bị ảnh hưởng không. Nhưng các số liệu cho thấy việc thu hút đầu tư nước ngoài trong 5 năm trở lại đây đều có sự tiến bộ và tăng trưởng. Và như bà chuyên gia UNDP đã nói, Việt Nam vẫn được xem là một trong những điểm đến đầu tư nước ngoài, được nhiều nhà đầu tư quan tâm.
Cú sốc gần đây nhất là chính sách thuế quan thương mại của chính quyền Tổng thống Trump (Hoa Kỳ). Nhiều người lo lắng, nhưng chúng ta đã phản ứng rất nhanh, quyết liệt và kịp thời. Cho đến nay, theo số liệu thống kê, thương mại của Việt Nam sang Hoa Kỳ trong 9 tháng vẫn đạt 112 tỷ USD. So sánh về kinh tế thì vẫn có sự tăng trưởng. Điều này phản ánh khả năng ứng phó với các cú sốc.
Tôi rất nhất trí với chuyên gia UNDP và TS. Nguyễn Sĩ Dũng rằng trong bối cảnh đó, an sinh xã hội của chúng ta vẫn có những chính sách rất tốt. Tôi chỉ kể thêm về chính sách xóa nhà tạm, nhà dột. Theo tôi đây là chính sách rất thành công, cùng với ba chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững. Điều này cho thấy năng lực của chúng ta đã được thực tế chứng minh.
Về câu hỏi chúng ta đã vượt qua những khó khăn, trở ngại gì, phải nói rằng có rất nhiều khó khăn, trở ngại lớn. Nhưng điều vui và quan trọng nhất là chúng ta đã vượt qua và có giải pháp để vượt qua. Những trở ngại là gì? Thứ nhất, dù có sự cải thiện về năng lực tài chính và điều hành, nhưng trước những cú sốc, nền kinh tế chúng ta vẫn còn hạn chế. Đó là hạn chế về nguồn lực, ảnh hưởng đến việc cân bằng các chính sách đầu tư phát triển, an sinh xã hội và tài khóa. Đây là một khó khăn rất lớn.
Khó khăn thứ hai, cần phân tích sâu hơn, là vấn đề về thể chế. Điều này giải thích tại sao Việt Nam lại quyết tâm đẩy mạnh cải cách thể chế đến vậy. Đó là hai khó khăn về nội tại.
Nhưng cũng có rất nhiều khó khăn từ bên ngoài mà chúng ta không thể kiểm soát được, ví dụ như COVID-19. Khó khăn khác là chính sách thuế quan, xuất nhập khẩu hay đầu tư của các nước. Chúng ta chỉ có thể tiên đoán, bám sát tình hình để có giải pháp phù hợp, chứ khó có thể can thiệp hay điều chỉnh được. Chúng ta chỉ có thể phối hợp, điều chỉnh một cách hài hòa. Các xung đột thương mại, biên giới giữa các quốc gia cũng đều ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, kinh tế, xuất nhập khẩu, vận chuyển hàng hóa...
Khó khăn thì rất nhiều, nhưng tôi xin nhắc lại, về cơ bản chúng ta đều đã có giải pháp khi gặp cú sốc và khó khăn. Điều đáng trân trọng và vui mừng là về cơ bản chúng ta đã vượt qua được các khó khăn cho đến thời điểm này. Tôi xin tóm lược lại như vậy. Là người đã gắn bó suốt quá trình 5 năm phát triển kinh tế - xã hội vừa rồi, tôi có rất nhiều cảm xúc. Những khó khăn, thách thức, những việc chúng ta đã vượt qua và những thành tựu đạt được đều khơi gợi trong tôi nhiều cảm xúc và theo tôi là rất đáng trân trọng.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Cảm ơn Đại biểu Quốc hội Phan Đức Hiếu đã phân tích rất sâu về những khó khăn và cách chúng ta vượt qua. Tôi cũng rất ấn tượng với những điều ông Hiếu nêu, đặc biệt là tiềm lực của chúng ta đã được nâng lên. Quả thực, đó là những thách thức mà tôi nghĩ ở các nhiệm kỳ trước sẽ rất khó khăn.
Tôi xin nói thêm hai ý. Một là, đây là giai đoạn chúng ta đã khéo léo đến mức nợ công giảm và không gian chính sách tài khóa được mở rộng. Điều này tạo tiền đề cho nhiệm kỳ sau tăng trưởng, đó là đầu tư cơ sở hạ tầng. Hai là, cơ sở hạ tầng của chúng ta vừa qua đã có sự đột phá, không chỉ cho nhiệm kỳ này mà còn là nền tảng cho các nhiệm kỳ sau.
Nhiều ý kiến chuyên gia có chung nhận định, trong bối cảnh khó khăn, thách thức nhiều hơn là cơ hội và thuận lợi, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã rất linh hoạt, uyển chuyển, mềm dẻo nhưng cũng rất quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành triển khai thực hiện nhiệm vụ để vượt qua những khó khăn, thách thức cũng như tận dụng được tối đa các cơ hội và lợi thế cho phát triển và đã đạt được những kết quả toàn diện về kinh tế-xã hội trong giai đoạn 2020-2025. Xin được hỏi GS. TS. Vũ Minh Khương, dưới góc độ quan sát quốc tế, ông có nhìn nhận và đánh giá như thế nào về khả năng chống chịu và sự bứt phá của kinh tế Việt Nam trong 5 năm qua? Xin ông phân tích rõ hơn về vai trò của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong công tác chỉ đạo, điều hành để đưa đất nước chống chịu, ứng phó hiệu quả, vượt qua các khó khăn, thách thức và đạt được những kết quả ấn tượng, bứt phá trong giai đoạn 2020-2025!
GS.TS. Vũ Minh Khương tham gia tọa đàm từ Singapore (ảnh chụp qua màn hình)
GS.TS. Vũ Minh Khương: Phải nói rằng chúng ta đã trải qua một giai đoạn đặc biệt, thời kỳ năm 2020-2025. Rõ ràng, những biến chuyển xảy ra trên mọi lĩnh vực mà không ai có thể lường trước được.
Thứ nhất, đại dịch COVID-19 đã đi vào lịch sử, khoảng thời gian đó chắc chắn không ai quên được.
Thứ hai, ngay cả những biến động về thương mại toàn cầu cũng đã gây chấn động cả thế giới và Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề. Nhiều người bên ngoài đã bày tỏ sự chia buồn và lo lắng cho Việt Nam, cho rằng chúng ta có thể suy sụp.
Thứ ba, chúng ta phải vượt lên trong hoàn cảnh khó khăn này, với mục tiêu đến năm 2025 sẽ mở đường, chuẩn bị tiến tới một kỷ nguyên mới, đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp phát triển.
Như vậy, trong bối cảnh khó khăn và phức tạp, Việt Nam đã thể hiện sức mạnh phi thường và khẳng định khả năng bứt phá mạnh mẽ trong thời gian tới.
Sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thể hiện sự nhất quán rất cao. Thực sự, khi tôi làm việc với nhiều ngành, địa phương và doanh nghiệp trong thời gian qua, tôi nhận thấy thành quả quan trọng nhất là việc thổi lên một luồng không khí mạnh mẽ, khẳng định rằng không thách thức nào dân tộc Việt Nam không thể vượt qua, không có khó khăn nào làm dân tộc chúng ta lùi bước và không có mục tiêu cao đẹp nào mà dân tộc Việt Nam không thể vươn tới được.
Qua quan sát, tôi thấy rõ ràng chúng ta đã làm được rất nhiều việc. Mặc dù nếu xét dưới góc độ tư vấn chiến lược, còn nhiều vấn đề cần tiếp tục thực hiện. Tuy nhiên, có ba đặc điểm nổi bật của giai đoạn này mà tôi ghi nhận từ Chính phủ và khái quát bằng 3 chữ Q.
Một là sự Quả cảm. Hai là rất Quyết liệt, đã làm là làm đến nơi đến chốn. Ba là sự Quên mình.
Ba phẩm chất quý báu này khiến tôi thực sự cảm kích và tự hào khi chia sẻ với bạn bè quốc tế rằng chúng ta có đội ngũ lãnh đạo quyết liệt, xứng tầm với sự phát triển của dân tộc trong giai đoạn này.
Mặc dù phía trước còn nhiều khó khăn, nhưng về mặt vĩ mô, khi làm việc với các ngành, địa phương, cá nhân và các trường đại học, tôi rất mừng vì cấp vĩ mô của chúng ta rất mạnh. Đây là kết quả của sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ trong thời gian qua, tạo ra khát vọng lớn cho mọi người, mong muốn Việt Nam có vị thế xứng đáng trong cộng đồng quốc tế trong hai thập kỷ tới.
Khi làm việc tại các trường đại học như Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Bách Khoa... cũng như các trường đại học tư nhân và Đại học Đà Nẵng, tôi đều nhận thấy một tâm thế rất khác biệt và sự xuất hiện của những cán bộ giỏi. Đây là điều đáng mừng.
Hay trong ngành nhựa, tại lễ tổng kết 35 năm của họ, tôi cũng thấy những bước tiến ngoạn mục. Ngành này đã thâm nhập vào tất cả các lĩnh vực của Việt Nam, đồng thời có ảnh hưởng đến môi trường và người lao động. Mọi người đều thể hiện cam kết cao về phát triển bền vững, về phát triển khoa học công nghệ và hội nhập quốc tế.
Họ tạo ra những sản phẩm mà thế giới phải coi trọng, các tập đoàn quốc tế phải tìm đến để mua. Đây là những điều rất đáng mừng.
Về cá nhân, công nghệ số đã thâm nhập khắp nơi. Việt Nam là một trong những quốc gia có tỉ lệ tiếp cận Internet băng thông rộng ở mức cao hàng đầu thế giới. Người dân có thể bán hàng trực tuyến, ngay cả ở những vùng như Đắk Lắk hay Lai Châu, họ cũng có thể bán hàng sang các nước lân cận, không chỉ trong nước. Họ có thể đặt hàng nghìn đơn hàng qua livestream. Họ chia sẻ với tôi rằng đó là sự năng động của người Việt Nam trong bối cảnh Chính phủ quyết tâm đổi mới, ổn định, và Ban Chấp hành Trung ương Đảng có những quyết sách rất lớn, thay đổi mạnh mẽ.
Trong kỷ nguyên AI, Việt Nam đã bắt nhịp rất tốt. Tôi muốn khẳng định thêm ý kiến của đại diện UNDP. Qua quan sát báo cáo về lao động và quyền của người lao động tại Việt Nam so với các nước, Việt Nam có những bước tiến đặc biệt, từ việc bảo vệ lao động nữ đến các vấn đề về tiền lương. Dù tăng trưởng kinh tế, chúng ta vẫn luôn quan tâm, chăm lo cho người lao động một cách trân trọng. Đây là những nền tảng vững chắc để Việt Nam có thể tiến xa hơn.
Tổng kết lại, tôi tin rằng chúng ta đang ở một giai đoạn bản lề, có thể đưa Việt Nam cất cánh trong hai thập kỷ tới. Chắc chắn, giai đoạn năm 2025-2026, chúng ta sẽ chứng kiến những bước tiến thần kỳ, mặc dù phía trước vẫn còn nhiều thách thức.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Phát biểu của GS. Vũ Minh Khương rất truyền cảm hứng. Tôi đặc biệt ấn tượng với nhận định của ông rằng giai đoạn này, các nhà lãnh đạo đã khơi dậy khát vọng mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam vươn lên phát triển. Đó là một sức mạnh tinh thần mà có lẽ các báo cáo khó có thể đánh giá đầy đủ. Ông cũng có góc nhìn đánh giá Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ là quyết đoán, dấn thân, tận tâm, làm việc không kể ngày đêm, không có ngày nghỉ.
Song song với phát triển kinh tế, công tác bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội luôn được quan tâm, thúc đẩy và tập trung thực hiện bằng các giải pháp đồng bộ, hiệu quả. Xin TS. Bùi Sỹ Lợi phân tích những điểm nhấn nổi bật mà nước ta đã đạt được trong công tác bảo đảm an sinh xã hội, thực hiện các nhiệm vụ về xã hội, phát triển y tế, văn hóa, giáo dục trong nhiệm kỳ này, theo đúng tinh thần là phát triển kinh tế luôn phải gắn với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội.
TS. Bùi Sỹ Lợi, nguyên Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Văn hoá và Xã hội của Quốc hội: Chúng ta đã vận dụng đúng quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước, đó là phát triển kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội - Ảnh: VGP/Giang Thanh
TS. Bùi Sỹ Lợi, nguyên Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Văn hoá và Xã hội của Quốc hội: Tôi đánh giá rất cao ba ý kiến của các chuyên gia và nhà khoa học. Đúng là rất nhiều cảm xúc. Tôi quan sát ở góc độ không còn là người tham gia xây dựng pháp luật hay điều hành, nhưng qua quan sát xã hội, tôi thấy thực sự rất nhiều cảm xúc.
Tôi khẳng định rằng nhiệm kỳ 2021-2025 là một nhiệm kỳ hết sức đặc biệt. Và chúng ta đã đặt tên cho hội thảo hôm nay là "Chống chịu và Bứt phá". Theo quan điểm cá nhân, tôi cho rằng chúng ta vừa chống chọi với đại dịch, nhưng điều quan trọng là chúng ta vẫn phục hồi và phát triển nền kinh tế. Điểm ngoạn mục nhất, tôi khẳng định, chính là việc chúng ta đã vận dụng đúng quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước. Đó là phát triển kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội. Đây là một trong hai yếu tố có tính chất thúc đẩy lẫn nhau để phát triển.
Tại Việt Nam, tôi thấy rằng các chính sách xã hội đã đạt được những thành tựu hết sức nổi bật, cả về văn hóa, xã hội và đặc biệt là phúc lợi xã hội. Chính nhờ phúc lợi xã hội, chúng ta đã vượt qua thách thức COVID-19. Đây là thành tựu tôi đánh giá rất lớn. Trong các chính sách xã hội của đất nước, đặc biệt là các chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, chúng ta đã triển khai một cách đồng bộ và bao trùm. Sự đồng bộ và bao trùm toàn dân thể hiện qua việc chúng ta đã bao quát cả vùng đồng bào dân tộc thiểu số gặp khó khăn và các đối tượng yếu thế. Chính sự đóng góp của vùng đồng bào dân tộc thiểu số và người yếu thế đã giúp chúng ta xây dựng một nền an sinh xã hội tốt nhất.
Tôi cho rằng vấn đề phát triển các lĩnh vực xã hội, an sinh xã hội là một điểm sáng của mô hình phát triển con người ở Việt Nam. Điều này là bởi Nghị quyết Trung ương 42 của Đảng ta đã khẳng định một ý nghĩa rất lớn, đó là chúng ta chuyển mạnh từ nhận thức Nhà nước phải chăm lo sang nhận thức toàn xã hội chung tay và hướng tới mục tiêu phát triển vì con người, lấy con người làm trung tâm. Tôi cho rằng đây là một ý nghĩa hết sức quan trọng của chính sách xã hội gắn với kinh tế.
Tôi xin nêu ba chỉ tiêu nổi bật và năm điểm nhấn trong bài học về phát triển kinh tế xã hội gắn liền với tiến bộ xã hội của Đảng và Nhà nước ta để chứng minh vấn đề này. Thứ nhất, tỉ lệ hộ nghèo đã giảm từ 4,4% năm 2021 xuống 1,9% năm 2024 và dự kiến đạt gần 1% vào năm 2025. Tôi đánh giá đây là một chỉ tiêu mà Đảng và Nhà nước ta luôn đi trước. So với khu vực thế giới, Việt Nam là quốc gia đầu tiên thực hiện chính sách chuẩn nghèo đa chiều và là một trong những nước tiên phong tại châu Á.
Chỉ tiêu thứ hai là độ bao phủ bảo hiểm y tế toàn dân đạt 95%. Tôi nhận thấy đây là một điểm rất sáng.
Thứ ba, đây là một chỉ tiêu tổng hợp mà TS. Nguyễn Sĩ Dũng đã phân tích rất rõ, đó là chỉ số Phát triển Con người (HDI). Trong nhiệm kỳ này, chỉ số HDI đã tăng 18 lần theo báo cáo của UNDP. Rõ ràng ba tiêu chí này khẳng định quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước ta trong việc gắn phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội.
Bây giờ tôi xin nêu thêm năm điểm nhấn mà tôi cho rằng rất tiêu biểu, bởi lẽ chúng thể hiện tinh thần của Đảng và Nhà nước ta: Phát triển kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội.
Điểm nhấn tiêu biểu thứ nhất là an sinh xã hội, giảm nghèo bao trùm bền vững, củng cố niềm tin và là động lực cho sự phát triển. Nếu kinh tế xã hội không chăm lo cho người dân thì niềm tin sẽ không được củng cố. Tuy nhiên, rõ ràng niềm tin của người dân đã được củng cố vững chắc đối với Đảng và Nhà nước, dù đã trải qua một nhiệm kỳ cực kỳ khó khăn.
Điểm nhấn tiêu biểu thứ hai là y tế và giáo dục được liên kết chặt chẽ, thể hiện tư duy phát triển con người một cách toàn diện. Gần đây, nhiều chính sách lớn đã được ban hành. Dù không có thời gian trình bày chi tiết ở đây, tôi cho rằng đây là một hướng đi rất đúng đắn.
Điểm nhấn tiêu biểu thứ ba là giáo dục và đào tạo đã nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, qua đó thu hẹp dần khoảng cách giữa các vùng miền. Đây là một điểm rất rõ ràng, bởi nguồn nhân lực là một trong những nhân tố hết sức quyết định.
Thứ tư là văn hóa xã hội. Chúng ta đã phát huy được bản sắc dân tộc, kết nối văn hóa để phát triển kinh tế và xã hội. Tôi cũng xem đây là một vấn đề văn hóa.
Cuối cùng, kinh tế gắn với công bằng xã hội. Ở điểm này, chúng ta phải khẳng định rằng việc đảm bảo lợi ích cho mọi người dân chính là đảm bảo cho toàn dân sự công bằng và bình đẳng. Điều mà tôi cảm thấy rất xúc động là việc bảo vệ được nhóm yếu thế.
Có thể khẳng định rằng, trong nhiệm kỳ 2021-2025, Chính phủ đã chỉ đạo rất quyết liệt và hiệu quả việc nâng cao phúc lợi xã hội cho toàn dân, đảm bảo mọi người dân đều được tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản có chất lượng. Cụ thể là y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh môi trường. Điều này chính là sự vận dụng đúng tinh thần Nghị quyết 42 của Trung ương Đảng và Nhà nước ta. Khi tổng kết Nghị quyết 12 về chính sách xã hội và tiếp tục ban hành Nghị quyết 42 về chính sách xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra vấn đề phải chuyển từ các dịch vụ xã hội cơ bản tối thiểu sang các dịch vụ xã hội cơ bản tối thiểu nhưng có chất lượng ngày càng cao. Đây là một sự chuyển biến về mặt chất lượng. Có thể nói, việc vận dụng quan điểm phát triển kinh tế gắn liền với tiến bộ xã hội của Đảng và Nhà nước ta đã được thể hiện rất rõ nét và nổi bật trong nhiệm kỳ 2021-2025.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: TS. Bùi Sỹ Lợi đã trình bày rất thuyết phục với những số liệu cụ thể, tôi không bình luận thêm gì.
Thưa Bà Trưởng đại diện UNDP, xin bà đánh giá về tiến độ thực hiện Mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam!
Trưởng đại diện UNDP Ramla Khalidi: Tôi tin rằng Việt Nam đã làm rất tốt trong việc thực hiện các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs), và hiện nay đang ở vị thế thuận lợi để tiếp tục tiến bước, hướng tới hoàn thành toàn bộ các mục tiêu này - Ảnh: VGP/Giang Thanh
Bà Ramla Khalidi: Tôi cho rằng phần lớn những gì chúng ta đã nói đến thực sự liên quan đến tất cả những thành tựu trong phát triển kinh tế xã hội, ông Phan Đức Hiếu và ông Bùi Sỹ Lợi đều đã đề cập đến điều đó. Một chỉ số then chốt là giảm nghèo — trong đó Việt Nam đã giảm tỉ lệ nghèo từ 9% xuống còn 4% trong giai đoạn 2016-2022. Và tôi nghĩ rằng mục tiêu sắp tới là tiếp tục duy trì và đẩy mạnh hơn nữa những kết quả đó.
Hiện nay, bảo hiểm y tế bao phủ tới 94% dân số Việt Nam. Tỉ lệ nhập học từ mầm non đến trung học đang trên đà tăng trưởng rất mạnh. Tôi tin rằng với những định hướng mới, xu hướng này sẽ tiếp tục được cải thiện. Cơ sở hạ tầng cũng đã được nâng cấp — từ y tế, giáo dục đến hạ tầng cộng đồng. Điều đó đã giúp ngay cả các cộng đồng ở vùng sâu vùng xa cũng được hưởng lợi từ những cơ hội kinh tế mở rộng, góp phần cải thiện đời sống và sinh kế của họ.
Tất cả những chỉ số xã hội này đều phản ánh rõ ràng tiến bộ của Việt Nam trong việc thực hiện các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs). Chúng ta đang ở một thời điểm rất đặc biệt — khi Việt Nam đã tích lũy được nhiều thành công đáng kể, và giờ đây cần phải "chuyển số", tăng tốc để tiếp tục duy trì và nâng cao quỹ đạo phát triển đó.
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nhìn nhận những thách thức còn tồn tại. Một trong những thách thức là tập trung vào việc giải quyết bất bình đẳng — giữa khu vực nông thôn và thành thị, giữa các dân tộc thiểu số và người Kinh, giữa nam và nữ. Những chênh lệch này vẫn còn thể hiện trên một số chỉ số xã hội. Bên cạnh đó, còn có những khoảng cách cần được thu hẹp trong lĩnh vực số — mức độ sẵn sàng của các nhóm dân cư trong việc thích ứng và tiếp cận các công nghệ, công cụ mới, để họ có thể tham gia bình đẳng vào quá trình phát triển của "Việt Nam mới".
Về bình đẳng giới, chúng ta cần đặc biệt chú ý để không làm mất đi những tiến bộ đã đạt được. Chúng tôi cũng nhận thấy có thể đang có sự giảm sút về số lượng nữ lãnh đạo ở cấp tỉnh. Đây là một điểm cần theo dõi kỹ trong các kỳ bầu cử sắp tới, bởi vì vai trò lãnh đạo của phụ nữ là nền tảng quan trọng cho thành công của Việt Nam. Việt Nam hoàn toàn có thể tự hào về những thành tựu trong bình đẳng giới, và điều đó cần được tiếp tục duy trì.
Một lĩnh vực thứ ba, như Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh sáng nay trong Lễ kỷ niệm 80 năm của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, là các thách thức liên quan đến biến đổi khí hậu, môi trường, ô nhiễm, đa dạng sinh học và kinh tế tuần hoàn. Có thể thấy rất rõ nhận thức mạnh mẽ về những vấn đề này — và chỉ cần nhìn lại vài tháng gần đây, chúng ta thấy rõ rằng tiến bộ có thể bị đảo ngược. Biến đổi khí hậu là thực tế đang khiến Việt Nam thiệt hại hàng tỷ USD mỗi năm. Vì vậy, cần có ứng phó phù hợp — không chỉ trong việc giảm thiểu, mà còn trong đầu tư mạnh mẽ cho thích ứng.
Tôi xin nhấn mạnh một vài điểm then chốt:
Thứ nhất, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và chuyển đổi xanh, phát triển năng lượng sạch — đây sẽ là động lực đưa Việt Nam bước vào kỷ nguyên tăng trưởng bền vững mới.
Thứ hai, tiếp tục đầu tư vào vốn con người, đặt con người ở trung tâm và giải quyết mọi bất bình đẳng còn tồn tại, để mọi người đều có thể hưởng lợi từ sự phát triển của đất nước.
Thứ ba, duy trì trọng tâm vào cải cách thể chế và hành chính, tăng cường phối hợp giữa các bộ ngành, giữa khu vực công và tư, giữa chính phủ, xã hội dân sự và các đối tác phát triển — để xây dựng các liên minh hỗ trợ cho khát vọng của Việt Nam.
Tôi tin rằng Việt Nam đã làm rất tốt trong việc thực hiện các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs), và hiện nay đang ở vị thế thuận lợi để tiếp tục tiến bước, hướng tới hoàn thành toàn bộ các mục tiêu này.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Phát biểu của Trưởng đại diện UNDP đã chỉ ra 2 điều mà trong báo cáo chúng ta ít để ý, mà tôi cho đó là thành tựu đáng ghi nhận. Đó là sự phát triển của con người mà chúng ta đã đạt được, có nhiều tiến bộ. Cuối cùng, điều đó là quan trọng nhất, thực chất nhất mà UNDP nhận xét và đánh giá cao về chúng ta.
Thứ hai, UNDP đánh giá cao lãnh đạo của chúng ta, tầm nhìn của lãnh đạo hướng tới một nền kinh tế xanh, bền vững, tập trung vào con người. Hướng đi như thế này được Trưởng Đại diện UNDP đánh giá cao.
Trong một nhiệm kỳ có quá nhiều khác biệt và khắc nghiệt, nhiều vấn đề vượt dự báo, song chúng ta vẫn đạt được những kết quả rất đáng tự hào. Theo ông Phan Đức Hiếu, những bài học hay, kinh nghiệm được quý được rút ra trong chống chịu, ứng phó với bối cảnh tình hình ở nhiệm kỳ này là gì? Theo ông, những thành tựu nào là ấn tượng nhất?
Đại biểu Quốc hội Phan Đức Hiếu và TS. Bùi Sỹ Lợi chia sẻ ý kiến tại Tọa đàm - Ảnh: VGP/Giang Thanh
Đại biểu Quốc hội Phan Đức Hiếu: Trước khi nói đến bài học rút ra thì tôi cũng rất chia sẻ với đại diện của UNDP. Mặc dù chúng ta đạt được rất nhiều thành quả tích cực, rất đáng trân trọng, đáng ghi nhận, nhưng thách thức ở phía trước cũng còn rất nhiều.
Và có ba điều tôi cũng muốn lưu ý. Một là có những thách thức mới xuất hiện là do hoàn cảnh. Mục tiêu tăng trưởng của chúng ta cũng thay đổi, đặt ở một cái mức độ cao hơn, lúc ấy sẽ xuất hiện những thách thức mới. Đấy là điều thứ nhất.
Thứ hai, cái này nói nhiều rồi và tôi rất đồng ý là, tựu chung lại, những điều như bà Trưởng đại diện UNDP nói, tôi gọi là "chất lượng tăng trưởng". Chất lượng tăng trưởng là điều rất đáng lưu ý, cả tính bền vững.
Và điều thứ ba mà tôi rất quan tâm là phải làm sao duy trì được động lực cải cách. Động lực phát triển của chúng ta là rất quan trọng. Vấn đề không chỉ là chúng ta tích cực hôm nay, mà câu hỏi đặt ra là: Động lực nào để chúng ta có thể khẳng định rằng ngày mai mình sẽ còn tích cực và quyết liệt hơn nữa? Đó là ba điểm về mặt tư duy chiến lược mà tôi rất muốn được chia sẻ.
Đối với cá nhân tôi, bài học ấn tượng nhất là cách chúng ta điều hành nền kinh tế và xử lý các cuộc khủng hoảng, đặc biệt là những cú sốc từ bên ngoài. Điểm nổi bật ở đây là một "tâm thế chủ động hơn". Tâm thế này thể hiện qua sự chủ động, không bị động, và sự bình tĩnh trong quá trình xử lý vấn đề.
Tôi xin nêu ra một số điểm cụ thể:
Thứ nhất, tâm thế chủ động được thể hiện rất rõ ràng trong ứng phó với đại dịch COVID-19. Ngay trong kỳ họp, Quốc hội đã ban hành nghị quyết về cơ chế đặc thù cho phòng chống dịch. Khi dịch bệnh còn chưa kết thúc, Quốc hội và Chính phủ đã chủ động đề xuất một chương trình phục hồi và phát triển kinh tế. Chúng ta đã linh hoạt chuyển hướng chiến lược từ ưu tiên chống dịch sang "vừa chống dịch, vừa phát triển kinh tế", và đến cuối năm 2023, trọng tâm được chuyển sang tập trung tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Cách xử lý vấn đề này là một bài học rất lớn.
Thứ hai, sự chủ động và quyết liệt trong công tác lập pháp và thực thi. Lần đầu tiên, Quốc hội quyết định rút ngắn thời gian để một đạo luật có hiệu lực sớm hơn thông lệ, nhằm đưa chính sách vào cuộc sống nhanh nhất. Một ví dụ khác, khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 68 về thúc đẩy kinh tế tư nhân, Quốc hội và Chính phủ chỉ trong vòng 12 ngày đã ban hành Nghị quyết 198 để thể chế hóa Nghị quyết 68, một tiền lệ chưa từng có.
Phương thức làm việc của Quốc hội cũng có sự thay đổi tích cực. Thay vì làm theo kế hoạch cứng nhắc, Quốc hội đã chuyển sang làm việc dựa trên yêu cầu và đòi hỏi phát triển của xã hội. Nếu một dự luật đảm bảo chất lượng sau khi thảo luận, Quốc hội có thể thông qua ngay mà không cần đợi đến cuối kỳ họp.
Về hiệu quả thực thi, nhiều công việc lớn trước đây tưởng chừng không thể thực hiện được đã được hoàn thành sớm hơn kế hoạch, điển hình là việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã. Nếu không có sự quyết liệt, mạnh mẽ và dám dấn thân thì không thể làm được.
Thứ ba, khả năng xác định đúng vấn đề và điểm nghẽn. Việc ban hành một loạt nghị quyết quan trọng (như Nghị quyết 68, 66, 59, 70, 71) cho thấy chúng ta đã xác định được các vấn đề cốt lõi. Quan trọng hơn, chúng ta đã có giải pháp kịp thời về mặt định hướng, chủ trương và thể chế. Các giải pháp này còn thể hiện tính đồng bộ cao. Ví dụ, song song với Nghị quyết 68 về thúc đẩy kinh tế tư nhân, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 66 về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và vật lực để phù hợp. Chúng ta cũng đã cân bằng giữa chính sách phát triển kinh tế và chính sách an sinh xã hội, thông qua các chương trình như hỗ trợ miễn học phí, ba chương trình mục tiêu quốc gia, và chương trình xóa nhà tạm, nhà dột.
Cuối cùng, một mong muốn cho tương lai là cần làm tốt hơn nữa, làm sao để đưa người dân trở thành một phần của quá trình phát triển.
Người dân không nên chỉ là đối tượng thụ hưởng cuối cùng mà phải là một phần của chính quá trình đó. Chúng ta cần phát huy ưu điểm rất lớn của mình là sự đồng thuận và hợp tác của người dân, điều đã được chứng minh rõ nét trong thời kỳ COVID-19. Trong thời kỳ COVID-19, hiếm có quốc gia nào tạo được sự đồng thuận chặt chẽ giữa người dân và chính quyền trong phòng, chống dịch. Nếu phát huy được điều này, người dân sẽ trở thành một nguồn sáng kiến, là người tham gia thực hiện và cũng là người thụ hưởng thành quả. Do đó, cần phát huy được đặc trưng rất riêng này của Việt Nam. Đó là một vài chia sẻ của tôi sau 5 năm nhìn lại.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Thực chất, những chia sẻ của ông Hiếu có nhiều điểm tương đồng với quan điểm của ông Vũ Minh Khương. Cả hai đều nhấn mạnh tinh thần quyết liệt và tầm quan trọng của tâm thế. Tôi cũng đồng tình rằng lãnh đạo Việt Nam đã thể hiện sự bình tĩnh đáng kể trong những bối cảnh đầy thách thức, ngay cả trong giai đoạn thế giới có nhiều biến động. Chính sức mạnh và sự kiên cường nội tại đã giúp chúng ta xử lý tốt các tình huống đó.
Ông Hiếu đã nêu bật hai ý quan trọng:
Thứ nhất là việc duy trì động lực cải cách. Đây là một yếu tố then chốt. Theo tôi, Đảng đã xác định và tạo ra một động lực mạnh mẽ cho cả nước, đó chính là mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045. Đây là một động lực to lớn, đòi hỏi sự nỗ lực và quyết tâm cao độ để thực.
Thứ hai, một điểm rất sâu sắc mà ông Hiếu đề cập là sự chuyển đổi từ tư duy "quản lý" sang "quản trị". Sự chuyển đổi này có nghĩa là người dân không còn là đối tượng thụ hưởng đơn thuần, mà trở thành một bộ phận không thể thiếu, một lực lượng tham gia vào quá trình phát triển. Đây chính là bản chất của quá trình chuyển đổi từ mô hình nhà nước quản lý sang một nền quản trị quốc gia, quản trị phát triển. Trong mô hình đó, người dân vừa là một phần của quy trình chính sách, vừa là người thực hiện và cũng là người thụ hưởng thành quả.
Bối cảnh tình hình khu vực và quốc tế được dự báo là sẽ tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường, khó đoán định. Cùng với những bài học phong phú mà Việt Nam có được, GS.TS Vũ Minh Khương có thể chia sẻ thêm một số bài học, kinh nghiệm quốc tế mà Việt Nam có thể tham khảo trong ứng phó với bối cảnh tình hình cũng như những giải pháp nhằm nâng cao năng lực công tác phân tích, dự báo tình hình để có những phản ứng chính sách kịp thời, linh hoạt, phù hợp với bối cảnh?
GS.TS. Vũ Minh Khương: Nếu Chính phủ tiếp tục với tinh thần quyết liệt như 5 năm vừa qua, trong giai đoạn 2025-2030, Việt Nam sẽ tạo ra những bước tiến vượt bậc, trở thành bài học cho thế giới - Ảnh chụp từ màn hình
GS.TS. Vũ Minh Khương: Từ khía cạnh quốc tế, tôi nhìn thấy rõ ràng là Việt Nam nổi bật lên, sáng chói ngay cả ở những thời điểm rất khó khăn.
Tôi vẫn nhớ hình ảnh Tổng Bí thư Tô Lâm và Thủ tướng Phạm Minh Chính có cuộc đàm thoại với ông Donald Trump. Khi bị áp thuế rất cao, chúng ta là nước đầu tiên đàm phán ngay với Tổng thống Mỹ và giải quyết được một bài toán, ít nhất là biến thách thức thành sức mạnh chứ không phải bị suy sụp.
Đây là sức mạnh tiềm tàng của Việt Nam, thể hiện sự hậu thuẫn của hơn trăm triệu dân, cộng đồng quốc tế và hàng triệu doanh nghiệp đứng sau. Điều này tạo ra niềm tin vững chắc và tâm thế ổn định trước mọi khó khăn, thử thách và Việt Nam đạt được những thành tựu đáng ghi nhận.
Từ những bài học này, tôi tin rằng Việt Nam có thể tiến rất nhanh trong thời gian tới nếu chúng ta tích lũy được những bài học, kinh nghiệm quốc tế. Có hai bài học lớn cần chú ý.
Thứ nhất, cần có những bước chuyển chiến lược trong ưu tiên trọng điểm. Đó là từ tăng trưởng sang tiến hóa. Nếu chúng ta tăng trưởng đơn thuần thì chỉ giúp quy mô mở rộng, nhưng tiến hóa là sự phát triển vượt bậc, bao hàm tính cộng hưởng, tầm nhìn tương lai và ý thức trách nhiệm.
Kinh nghiệm tôi nghiên cứu từ Bình Dương (Việt Nam) với Thâm Quyến (Trung Quốc) cho thấy họ rất chú trọng tiến hóa, luôn luôn nâng cấp lên để trở thành thành phố toàn cầu. Trong khi đó, dù Bình Dương hiện đã rất lớn, nhưng vẫn ở mức độ gọi là "extension" (mở rộng) thay vì tiến hóa thực sự. Đây là điểm chúng ta cần đặc biệt chú ý.
Thứ hai, chúng ta từ việc chỉ tập trung vào điểm nghẽn sang tập trung vào điểm xung yếu của hệ thống. Việc này tạo ra đột phá, tạo quỹ đạo mới. Còn lại, nếu chỉ tập trung vào điểm nghẽn thì vẫn là quỹ đạo cũ, chỉ là nhanh hơn thôi, rất vất vả mà nhiều khi không tạo ra thành quả mà chúng ta kỳ vọng.
Nếu tập trung vào những điểm xung yếu, ví dụ như chiến dịch Điện Biên Phủ, chiến dịch Buôn Ma Thuột hay chiến dịch Hồ Chí Minh, thì Việt Nam sẽ còn làm được rất nhiều việc lớn. Với sự quyết đoán, quả cảm và sự quyết liệt của Tổng Bí thư, Thủ tướng Chính phủ và các lãnh đạo khác, Việt Nam hoàn toàn có thể thực hiện nhiều việc lớn hơn nữa, điều mà cộng đồng quốc tế ghi nhận.
Trong kiến tạo giá trị, cần hết sức chú ý. Nhiều nước không phát triển được cao vì bị thiên lệch vào "trục tung" (tích lũy nguồn lực; tăng năng lực; nỗ lực cao) chứ không tích số nó với "trục hoành" (nguồn lực đầu tư vào đâu để tạo thực lực; năng lực, động lực nào thúc đẩy và nỗ lực của cá nhân, ngành, địa phương) thì có thành tổng lực không.
Tổng lực có sức mạnh hơn rất nhiều, các địa phương với nhau, các doanh nghiệp với nhau, các ngành nghề với nhau. Việt Nam có sức mạnh tiềm tàng ở đó.
Kinh nghiệm sức mạnh của hệ thống từ Singapore hay Trung Quốc thì tôi thấy sức mạnh hệ thống, nơi "1 cộng 1 bằng 11", tạo ra giá trị vô vàn và tạo ra lòng tin. Đây là điều hết sức chú ý trong thời gian tới.
Trong lược đồ để chuyển thành Nhà nước kiến tạo, phát triển, ta phải đi từ vòng tròn nội tiếp sang vòng tròn ngoại tiếp trên ba trục giá trị:
Thứ nhất, kinh tế thị trường và kinh tế tư nhân rất tốt, nhưng cần phát triển thêm bộ máy nhà nước, bộ máy công quyền ưu tú để hỗ trợ kinh tế tư nhân và thị trường; như "hai bàn tay vỗ vào nhau" thì mới vang dội được.
Thứ hai, khi chúng ta hội nhập quốc tế sâu rộng thì phải chú trọng năng lực thẩm thấu, khả năng sáng tạo và nguồn lực con người. Nếu chỉ hội nhập sâu, xuất khẩu nhiều nhưng đội ngũ nhân lực yếu, khả năng thẩm thấu và sáng tạo hạn chế thì không thể phát triển bền vững.
Thứ ba, phát triển hạ tầng đang rất tốt nhưng làm sao gắn kết hạ tầng và đặc biệt là xây dựng các thành phố trụ cột - thành phố toàn cầu. Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, việc phát triển hệ thống tàu điện ngầm tương tự các thành phố ở Trung Quốc trong vòng 10-15 năm sẽ thu hút dân cư và thúc đẩy phát triển mạnh mẽ. Hà Nội sẽ là chủ đạo cho cả miền Bắc. Miền Nam thì Thành phố Hồ Chí Minh phải chủ đạo cho toàn bộ Đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ. Miền Trung thì có Đà Nẵng.
Làm sao chúng ta kết lại được sức mạnh tổng hợp như vậy, đó là cái tiềm tàng. Tôi tin rằng nếu Chính phủ tiếp tục với tinh thần quyết liệt như 5 năm vừa qua, trong giai đoạn 2025-2030, Việt Nam sẽ tạo ra những bước tiến vượt bậc, trở thành bài học cho thế giới.
Tôi đi dạy học rất nhiều quốc gia, từ Myanmar đến châu Phi, họ đều muốn học hỏi kinh nghiệm cải cách của Việt Nam. Cái hay của Việt Nam là một đất nước cũng phải chịu muôn vàn khó khăn, đau thương, mất mát nhưng mà tiến lên được.
Có một triết lý tôi cho là rất hay mà thời gian qua, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội đều chung quan điểm; tức là "biến thù thành bạn" – điều này ít nước làm được. Đây là điểm Việt Nam hay hơn các nước khác.
Không chỉ đồng lòng trước khó khăn mà trân trọng tất cả những người bạn cũ, bạn mới và từ "thù" cũng biến thành bạn. Những yếu tố này sẽ là sức mạnh giúp Việt Nam tiến nhanh và trở thành tấm gương phát triển trong thời gian tới.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Tôi đồng tình với ý kiến của GS. Khương rằng các Nghị quyết của Đảng và đường lối của chúng ta đề ra rất đúng đắn và sáng suốt. Tuy nhiên, vấn đề cốt yếu nằm ở năng lực thực thi. Việc xây dựng một bộ máy hành chính công vụ tinh hoa là yêu cầu cấp thiết. Có lẽ kinh nghiệm này từ Singapore cho thấy rất rõ. Bộ máy hành chính công vụ của Singapore rất chuyên nghiệp. Chính bộ máy đó đã biến các chủ trương, đường lối của Chính phủ Singapore đi vào cuộc sống và đạt hiệu quả cao. Đây là bài học mà Việt Nam cần tập trung để thúc đẩy sự phát triển.
Trong phát triển, cơ hội và thách thức luôn đan xen. Trên thực tế thời gian qua, nước ta đã nắm bắt rất tốt các cơ hội cho phát triển, thậm chí còn tìm được cơ hội trong khó khăn, biến được "nguy" thành "cơ".
Theo nhận định của các vị khách mời, những lợi thế, cơ hội nào Việt Nam cần phải tiếp tục tận dụng, nắm bắt để duy trì đà phục hồi và phát triển bứt phá của nền kinh tế trong thời gian tới?
Ảnh: VGP/Giang Thanh
Bà Ramla Khalidi: Tôi nghĩ rằng để đạt được các mục tiêu đầy tham vọng từ nay đến năm 2050 – phát thải ròng bằng 0 và tăng trưởng kinh tế hai con số, Việt Nam sẽ không chỉ phụ thuộc vào nền kinh tế, mà như đã nhấn mạnh rất rõ, còn dựa trên năng lực quản trị chiến lược vững mạnh, chính phủ hiệu quả, và trọng tâm phát triển bền vững, thay vì chỉ tập trung vào tăng trưởng kinh tế. Tôi cho rằng GS. Khương đã nêu điều này rất rõ ràng, và đây cũng chính là bài học rút ra từ các quốc gia trong khu vực như Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản và nhiều nước khác.
Đây là yếu tố then chốt hiện nay. Tầm nhìn đã có, nhưng để hiện thực hóa tầm nhìn đó, cần nâng cao năng lực hoạch định chính sách và chiến lược của Chính phủ.
Thứ nhất là phối hợp liên ngành và liên kết toàn xã hội, bảo đảm rằng các nỗ lực phát triển được triển khai đồng bộ giữa các lĩnh vực và các tầng lớp trong xã hội.
Thứ hai là đổi mới sáng tạo — làm thế nào để tạo ra các cơ chế khuyến khích đội ngũ công chức, giúp họ tự do và linh hoạt trong đổi mới, dám thử nghiệm những cách làm mới, thậm chí không hoàn toàn theo khuôn mẫu. Làm thế nào để xây dựng "vùng thử nghiệm an toàn" cho phép họ đổi mới và chấp nhận rủi ro một cách có kiểm soát.
Thứ ba là dữ liệu và bằng chứng thực tiễn — khả năng phân tích xu hướng và thích ứng linh hoạt với những biến động khi chúng xảy ra. Một điều chắc chắn là trong tương lai sẽ tiếp tục xuất hiện các cuộc khủng hoảng và cú sốc mới, đặc biệt là khủng hoảng khí hậu. Đó chính là thực tế của thế giới ngày nay, và các thách thức bên ngoài sẽ còn tiếp diễn. Vấn đề là làm sao thích ứng hiệu quả, dựa trên dữ liệu và bằng chứng, để dự báo xu hướng và điều chỉnh chính sách một cách năng động, đồng thời vẫn giữ được tinh thần chăm lo của chính phủ đối với người dân.
Và cuối cùng — điều này cũng đã được nhấn mạnh rất rõ — người dân không chỉ là đối tượng thụ hưởng, mà còn là chủ thể và là đối tác trong phát triển. Cách tiếp cận toàn diện, lấy người dân làm trung tâm sẽ tiếp tục đóng vai trò vô cùng quan trọng. Việc lắng nghe nhu cầu, quan điểm và cảm nhận của người dân sẽ tiếp tục là yếu tố thiết yếu, là một phần cốt lõi trong chiến lược phát triển bao trùm và bền vững của Việt Nam.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Những ý kiến của bà rất sâu sắc. Trước hết là phát triển không chỉ về kinh tế mà phát triển chính là phần năng lực. Chúng ta có năng lực, chúng ta sẽ làm được kinh tế, chúng ta sẽ thúc đẩy được phát triển xã hội. Về phát triển năng lực thì trong đó có năng lực của con người, năng lực của thể chế là rất quan trọng.
Nói đến năng lực thì khả năng điều phối giữa các bộ ngành, giữa Trung ương và địa phương và hợp tác công tư nữa. Điều phối là một trong những vấn đề rất quan trọng mà chúng ta cần phải cải thiện.
Bên cạnh đó là tạo một không gian thể chế hay là sự an toàn về mặt pháp lý cho đội ngũ cán bộ công chức. Năng lực của họ là một chuyện nhưng cần có một không gian khiến người ta dám sáng tạo, dám làm, dám đổi mới, dám quyết đoán. Không gian thể chế và trong đó có quy chế thử nghiệm để những người có ý tưởng, có sức sáng tạo sẽ có không gian để làm, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, công chức.
Tiếp theo, chuyển đổi nhưng chúng ta không thể quyết theo cảm tính, phải quyết theo chứng cứ và dữ liệu. Phát triển hệ thống dữ liệu của chúng ta là rất quan trọng. Để quyết theo dữ liệu mà dữ liệu mạnh thì chúng ta không thể quyết sai. Đảng, Nhà nước ta đã thúc đẩy chuyển đổi số, cho phép chúng ta có thể quyết theo dữ liệu. Và dữ liệu dẫn dắt chúng ta vận hành. Điều đó rất quan trọng. Tiếp theo xin được nghe ý kiến của TS. Bùi Sỹ Lợi.
TS. Bùi Sỹ Lợi: Những ý kiến của bà Trưởng đại diện UNDP nói đúng. Tôi cho là chúng ta có nhiều lợi thế và cơ hội rất cần phải tiếp tục. Tôi đánh giá ở một chỗ là làm sao phát huy được về mặt con người - chính là nguồn nhân lực.
Tôi cũng rất đồng tình với GS. Vũ Minh Khương nói đến ba đánh giá của lãnh đạo Việt Nam, nói tắt là "3Q" - quả cảm, quyết liệt và quên mình. Quan điểm của tôi cần biến 3Q của lãnh đạo thành 3T của Nhân dân: Tin tưởng, Tự tin và Tự lực tự cường.
Sự lãnh đạo của Đảng, của Nhà nước đối với Nhân dân được Nhân dân ủng hộ, đồng tình và tự lực tự cường vươn lên thì chúng ta sẽ đạt được thành công và sẽ vượt qua được những khó khăn, thách thức. Và lòng dân gắn liền với ý Đảng thì rõ ràng là thành công sẽ sớm.
Các vị khách mời tham dự Tọa đàm - Ảnh: VGP/Giang Thanh
TS. Nguyễn Chí Dũng: Bước vào kỷ nguyên mới, có rất nhiều các chỉ tiêu, mục tiêu tham vọng được đề ra, trong đó có mục tiêu tăng trưởng 2 con số trong nhiều năm liên tiếp. Để đạt được các mục tiêu đề ra cho nhiệm kỳ tới, xin được hỏi các đại biểu tham gia, trước hết là GS. Vũ Minh Khương, có khuyến nghị gì và có nhận định như thế nào để Việt Nam có thể đạt được mục tiêu tăng trưởng 2 con số? Khả năng tăng trưởng là như thế nào? Có thể tăng trưởng được thì nếu được khuyến nghị, ông khuyến nghị Chính phủ nên tập trung vào những vấn đề gì?
GS.TS. Vũ Minh Khương: Việc quốc tế quan sát cũng như nghiên cứu thì tăng trưởng là hệ quả của nỗ lực cải cách, nếu đặt mục tiêu Việt Nam sẽ tiến rất nhanh tới đẳng cấp toàn cầu như sánh với Singapore và Hàn Quốc… thì tăng trưởng 10-12% còn tuỳ thuộc vào bối cảnh quốc tế nhưng sẽ rất nhanh và chắc chắn nền tảng của chúng ta một quốc gia phát triển thì GDP/đầu người sẽ đi theo. Đó là điểm thứ nhất mang tính chất nguyên lý, chứ không chạy theo cái ngọn là nhìn đà tăng trưởng để bơm tiền vào… trong khi lại hy sinh mặt nền tảng về thể chế, quy chế.
Thứ hai là 29 ngành công nghiệp, có rất nhiều ngành muốn xung phong tiên phong để đi lên 2045 trước. Có những ngành có thể tăng trưởng 15-20%, đặc biệt trong giai đoạn đầu nếu được tạo điều kiện nền tảng. Tôi rất mong thời gian tới Chính phủ sát cánh cho từng ngành. Mỗi ngành đều có chiến lược phát triển đến 2045, từ ngành thép đến nhựa, bất động sản… Họ cần cái gì chúng ta hỗ trợ tối đa.
Điểm thứ ba là cơ hội nằm ngay trong thách thức. Tìm được cơ hội giỏi là tìm thấy ngay trong thách thức mới là bước tiến vượt bậc, chứ không phải cơ hội chung chung.
Ba thách thức lớn nhất của Việt Nam mà chúng ta đã chỉ ra: Một là thể chế, chúng ta tìm ra cơ hội ở đây rất lớn. Tức là một cải cách ở đây tạo ra những phát triển vượt bậc, mà thể chế bắt đầu từ những vấn đề rất đơn giản. Đó là soạn ra luật pháp, chính sách làm sao đảm bảo được tiêu chí là nó phải được dân hân hoan đón nhận, hơn là tạo ra ức chế. Quy trình ra chính sách phải như một sản phẩm, phải có phòng thí nghiệm, phải có chuyên gia đánh giá, thử nghiệm rồi mới đưa ra. Còn ở mình hay đưa ra rồi nhiều khi thấy chưa ổn lại phải sửa tiếp; như vậy quy trình chưa chuẩn. Từ chính sách đến luật pháp nên tham khảo tối đa quốc tế họ đang làm gì, ra sao, ta làm theo và có phòng thử nghiệm để cho mọi người đánh giá, chấm điểm. Theo tôi chính sách, luật pháp cần tham khảo các nước, không vội vàng. Chúng ta nên tham khảo kinh nghiệm của các nước, cho kiểm nghiệm một thời gian. Các nước tham khảo thật kỹ bằng các chính sách sau đó mới ban hành luật. Đó là điểm thể chế mà tôi cho là cơ hội rất lớn. Nếu làm được tốt cái này thì tăng trưởng nhiều %, có nền tảng.
Thứ hai là thách thức nằm trong toàn cầu hoá. Chúng ta xuất khẩu lớn rồi nhưng chỉ tăng xuất khẩu nữa chưa phải tốt đâu mà làm sao tăng giá trị gia tăng ở trong mỗi USD xuất khẩu. Tất cả các ngành, các chuyên gia bàn với nhau, từ con tôm, đến máy tính điện tử… để làm sao tăng giá trị hàm lượng của Việt Nam lên cao. Chúng ta hay tự hào về tăng lượng xuất khẩu nhưng cần tăng giá trị gia tăng đem lại. Đặc biệt trong toàn cầu hoá, cần xác định đối tác chiến lược. Ngay cả thị trường Trung Quốc, nên mở ra một cách toàn diện. Chúng ta nên tăng cường nhiều văn phòng lớn ở Trung Quốc để tìm hiểu thấu đáo rằng tiếp cận thị trường này như thế nào. Thị trường đó lớn tương đương với Mỹ lại ngay gần chúng ta mà chúng ta không khai thác được thì là một thiệt thòi.
Điểm thứ ba là thách thức của chúng ta là nguồn nhân lực còn hạn chế, năng lực sáng tạo còn yếu. Đây lại là điểm mạnh rất lớn để chúng ta tạo ra những khu thương mại tự do ở các thành phố lớn và cho phép nếu doanh nghiệp vào nghiên cứu phát triển hay các đại học trong tốp 100 mở trong đó sẽ được ưu đãi rất đặc biệt, không kém gì Singapore. Đây là những bước ngoặt rất lớn và tạo ra thi đua mạnh mẽ của đại học Việt Nam để trở thành nơi thu hút được sinh viên toàn cầu và đồng thời tạo thành hệ sinh thái mở ở Hà Nội, TPHCM, Đà Nẵng… để chúng ta trở thành tâm điểm cho thế giới đến tham khảo.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Những điều GS. Khương nói quá rõ rồi, tôi xin nhấn mạnh một số. Thứ nhất, tôi thấy tâm đắc nhất chính là vấn đề đánh giá tác động của chính sách. Mình soạn chính sách trên dữ liệu, pháp luật cũng thế, đánh giá được tác động của điều chỉnh, lúc ấy chính sách chắc chắn sẽ tốt. Ban hành nhanh rồi sau sửa đổi thì tốn chi phí. Quan trọng phải đánh giá được tác động của chính sách. Rồi phải có tham gia của chuyên gia, người dân, đặc biệt là đối tượng chịu tác động.
Thứ hai là quy trình, GS. Khương cũng nói một điều tôi tâm đắc là khai thác thị trường Trung Quốc. Rõ ràng mình ở cạnh Trung Quốc, một thị trường khổng lồ và đang phát triển mạnh như vậy, thì một chiến lược để khai thác tối đa thị trường đó là một trong những định hướng quan trọng để chúng ta tăng trưởng 2 con số.
Xin cùng câu hỏi tương tự xin dành cho bà Ramla Khalidi.
Bà Ramla Khalidi: Có lẽ câu hỏi đặt ra không hẳn là làm thế nào để đạt được tăng trưởng hai con số, mà là làm thế nào để đạt được phát triển bền vững và bao trùm cho Việt Nam — nơi mà mọi cộng đồng và mọi người dân đều có thể hưởng lợi và đóng góp vào tiến trình phát triển đó.
Tôi nghĩ rằng điểm quan trọng đã được nêu ra là: Việt Nam đã có hệ thống nghị quyết, định hướng chính sách và chiến lược rất rõ ràng. Giờ đây, nhiệm vụ trọng tâm là chuyển sang giai đoạn triển khai thực hiện — một quá trình linh hoạt, thích ứng, nhanh nhạy và khuyến khích đổi mới sáng tạo.
Tôi cho rằng có một số vấn đề cần được tập trung:
Thứ nhất, nâng cao năng suất lao động là yếu tố then chốt.
Thứ hai, tăng giá trị gia tăng của xuất khẩu, bảo đảm rằng Việt Nam có thể tham gia sâu hơn vào các chuỗi giá trị toàn cầu với sản phẩm công nghiệp có giá trị cao hơn.
Thứ ba, cần chú trọng đến chất lượng của dòng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) — không chỉ thu hút FDI, mà phải đảm bảo rằng FDI mang lại giá trị lan tỏa, hỗ trợ phát triển thị trường nội địa và doanh nghiệp trong nước.
Thứ tư, chuẩn bị lực lượng lao động Việt Nam sẵn sàng cho các quá trình chuyển đổi — đặc biệt là chuyển đổi năng lượng và chuyển đổi số. Cần bảo đảm rằng những người có thể mất việc trong quá trình này được đào tạo lại, có kỹ năng mới để tham gia vào các ngành nghề mới nổi.
Tất cả những yếu tố này kết hợp lại sẽ đóng góp vào mục tiêu chung.
Do đó, tôi cho rằng câu hỏi lớn hơn nên là khát vọng của Việt Nam — một Việt Nam phát triển bền vững, bao trùm, tiếp tục đi lên và đạt được trình độ phát triển cao trong những năm tới.
TS. Bùi Sỹ Lợi: Tôi rất đồng tình với ý kiến của TS. Nguyễn Sĩ Dũng vừa bình luận phát biểu của Trưởng đại diện UNDP.
Theo tôi cũng như vậy, tăng trưởng hai con số chính là cái mục tiêu đầy khát vọng của Đảng và Nhà nước ta. Nhưng nó chỉ bền vững khi được nâng đỡ bởi một nền tảng xã hội vững chắc. Đó là ý Đảng lòng dân.
Tôi xin kiến nghị vấn đề cốt lõi là phải gắn tăng trưởng nhanh với phát triển bao trùm và phải lấy con người làm trung tâm, bảo đảm được tiến bộ và công bằng xã hội trong từng chính sách. Câu này Văn kiện Đại hội Đảng nêu rất nhiều và tôi xin nhắc lại như vậy.
Và tại sao chúng ta lại phải như vậy? Vì xu thế tất yếu của kỷ nguyên mới của chúng ta hiện nay chính là tăng trưởng xanh, sáng tạo và nhân văn, trong đó chất lượng nguồn nhân lực và công nghệ số và xã hội số quyết định sức bật của một nền kinh tế. Cho nên tôi cho là muốn đạt được tăng trưởng hai con số thì chúng ta phải phát triển bao trùm.
Đối với Chính phủ, tôi rất mong muốn Chính phủ tiếp tục chuyển tư duy từ quản lý sang kiến tạo và phát triển. Đây chính là một trong những chỉ đạo nổi bật nhất của Chính phủ trong nhiệm kỳ 2021-2025.
Còn đối với Thủ tướng, tôi rất kỳ vọng và mong Thủ tướng tiếp tục chỉ đạo theo hướng nổi bật nhất của nhiệm kỳ vừa qua, đó chính là làm hết mình chứ không phải hết giờ, làm vì dân chứ không phải vì mình.
Tư tưởng chỉ đạo của Thủ tướng lâu nay như thế, chúng ta tiếp tục mục tiêu này thì sẽ khơi dậy được sức mạnh của dân tộc và khả năng chúng ta đạt được mục tiêu hai con số là khả thi.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Qua tọa đàm, có thể khái quát một số kết quả nổi bật về tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam 5 năm qua: Việt Nam đã kiểm soát thành công và khắc phục hiệu quả đại dịch COVID-19; kinh tế Việt Nam khẳng định đủ sức chống chịu trước các cú sốc bên ngoài, duy trì tốc độ tăng trưởng thuộc nhóm cao hàng đầu thế giới; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm.
Các động lực tăng trưởng truyền thống đều phát huy hiệu quả; ba đột phá chiến lược về thể chế, hạ tầng và nhân lực được triển khai quyết liệt, hiệu quả, mở ra không gian và kiến tạo phát triển; hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển đột phá với nhiều công trình quy mô lớn, hiện đại, có tính kết nối, lan tỏa và định hình cho tương lai; khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số được triển khai quyết liệt, đạt kết quả bước đầu quan trọng; nhiều dự án tồn đọng, kéo dài nhiều năm được xử lý quyết liệt, đạt kết quả tích cực, góp phần giải phóng nguồn lực cho phát triển.
Các lĩnh vực văn hóa, xã hội có bước tiến bộ cả về nhận thức, hành động và kết quả; đời sống của Nhân dân được nâng lên; Các chính sách người có công, an sinh xã hội, giảm nghèo được triển khai toàn diện và đạt nhiều kết quả nổi bật với tinh thần "không để ai bị bỏ lại phía sau".
Triển khai quyết liệt, hiệu quả việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy của Chính phủ và tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp gắn với đẩy mạnh phân cấp, phân quyền. Công tác thanh tra, kiểm tra, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực được đẩy mạnh. Tiềm lực quốc phòng, an ninh được củng cố, tăng cường; đối ngoại và hội nhập quốc tế là điểm sáng.
Đánh giá chung, trong bối cảnh nhiều khó khăn, thách thức, kết quả đạt được của năm 2025 và giai đoạn 2021 - 2025 là rất đáng trân trọng, tự hào; năm sau tốt hơn năm trước, nhiệm kỳ này tốt hơn nhiệm kỳ trước trên hầu hết các lĩnh vực. Đặc biệt là chúng ta đã giữ được "trong ấm, ngoài êm", được Nhân dân và cộng đồng quốc tế đánh giá cao; tiếp tục tạo xu thế đổi mới; tạo đà phát triển nhanh, bền vững; tạo lực phát triển bao trùm, toàn diện; tạo khí thế bước vào kỷ nguyên mới và củng cố, tăng cường niềm tin vững chắc của Nhân dân vào Đảng, Nhà nước.
Cũng qua toạ đàm, một lần nữa có thể khẳng định, trong bối cảnh có rất nhiều khó khăn, thách thức chưa có tiền lệ, dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng cộng sản Việt Nam, Chính phủ nhiệm kỳ 2021-2026 đã hành động quyết liệt, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao, để lại nhiều cung bậc cảm xúc, dấu ấn nổi bật để đến nay nhìn lại, chúng ta hoàn toàn có thể tự hào về những gì đã vượt qua, những kết quả toàn diện đạt được. Những thành tựu toàn diện đó đã củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân, tạo thế, tạo đà, tạo lực để đất nước vững bước, vững tin tiến vào kỷ nguyên mới, phát triển phồn vinh, thịnh vượng, vững mạnh và hùng cường, vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân./.