Hội nghị Thường trực Chính phủ làm việc với doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) với chủ đề "Nhiệm vụ, giải pháp góp phần tăng trưởng kinh tế hai con số, phát triển đất nước nhanh và bền vững".
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị; các Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc, Bùi Thanh Sơn, Mai Văn Chính cùng dự Hội nghị.
Tham dự Hội nghị có các bộ trưởng, thành viên Chính phủ; lãnh đạo UBND các tỉnh, thành phố Hà Nội, TPHCM, Đồng Nai, Bình Dương, Khánh Hòa, Hải Phòng, cùng đại diện các DNNN và ngân hàng thương mại nhà nước.
Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc phát biểu tại hội nghị.
Phát biểu khai mạc Hội nghị, Phó Thủ tướng Chính phủ Hồ Đức Phớc cho biết, Thường trực Chính phủ tổ chức hội nghị làm việc với các doanh nghiệp nhà nước nhằm thảo luận về nhiệm vụ và giải pháp góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hai con số, hướng tới phát triển nhanh và bền vững. Mục tiêu đặt ra trong năm nay là đạt mức tăng trưởng tối thiểu 8% GDP.
Ngày 15/6/2024, Thường trực Chính phủ đã tổ chức Hội nghị với các doanh nghiệp nhà nước nhằm thảo luận về trách nhiệm và đóng góp của khu vực này trong việc thúc đẩy tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế. Hội nghị đã khẳng định vai trò tiên phong, dẫn dắt và bứt phá của doanh nghiệp nhà nước trong việc thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững.
Năm 2025 có ý nghĩa đặc biệt, là năm cuối của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2025, đồng thời là thời điểm quan trọng để triển khai mạnh mẽ cuộc cải cách tinh gọn tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, tiến hành Đại hội Đảng các cấp và chuẩn bị cho Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XV. Đây cũng là giai đoạn then chốt để củng cố những nền tảng quan trọng, tạo tiền đề vững chắc giúp đất nước tự tin bước vào một giai đoạn phát triển mới, bền vững và thịnh vượng.
Trong bối cảnh đó, chúng ta cần thực hiện những đột phá mạnh mẽ và toàn diện về thể chế, nâng cao hiệu lực bộ máy, cắt giảm thủ tục hành chính, khơi thông mọi nguồn lực để đạt tốc độ tăng trưởng tối thiểu 8% trong năm 2025. Trong điều kiện thuận lợi hơn, chúng ta có thể hướng tới mục tiêu tăng trưởng hai con số, tạo động lực vững chắc cho sự phát triển bền vững của đất nước trong giai đoạn tới.
Trong tháng này, Thường trực Chính phủ đã tổ chức hội nghị với các doanh nghiệp tư nhân lớn của đất nước, hội nghị với các ngân hàng thương mại, và hôm nay, chúng ta có một hội nghị hết sức quan trọng.
Tại hội nghị này, Thường trực Chính phủ sẽ làm việc với các doanh nghiệp nhà nước để lắng nghe, trao đổi, thảo luận về cơ chế, chính sách và các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Mục tiêu là khai thác tối đa các nguồn lực, đổi mới động lực tăng trưởng và thúc đẩy những động lực tăng trưởng mới, góp phần đưa nền kinh tế tăng tốc, bứt phá trong năm 2025, hướng tới các mục tiêu phát triển bền vững của đất nước.
Với vai trò quan trọng của khối doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt trong việc giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, các doanh nghiệp nhà nước, tập đoàn, tổng công ty có mặt tại hội nghị hôm nay chính là lực lượng kinh tế nòng cốt, đóng vai trò tiên phong trong việc cùng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân nỗ lực đưa đất nước phát triển bứt phá.
Trên tinh thần đó, Phó Thủ tướng đề nghị các đại biểu tập trung thảo luận một số nội dung trọng tâm. Đồng thời, Chính phủ muốn lắng nghe ý kiến đóng góp về các giải pháp cụ thể nhằm thực hiện hiệu quả mục tiêu và nhiệm vụ đề ra.
Bên cạnh đó, cần thẳng thắn nêu lên những khó khăn, vướng mắc cũng như những vấn đề cần sự hỗ trợ từ Chính phủ để tạo thêm động lực cho doanh nghiệp nhà nước trong việc thúc đẩy sản xuất kinh doanh hiệu quả hơn.
Trước hết, chúng ta cần đánh giá toàn diện về việc thực hiện Nghị quyết số 15 liên quan đến tiếp tục cơ cấu, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Đồng thời, cần phân tích, đánh giá vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong việc đảm nhận các nhiệm vụ lớn, các lĩnh vực đột phá nhằm thúc đẩy tăng trưởng mạnh mẽ trong năm 2025.
Với tiềm lực và vị thế của mình, doanh nghiệp nhà nước cần tập trung vào đầu tư, khai thác các dự án lớn, dự án trọng điểm, cũng như giải quyết những bài toán chiến lược của quốc gia trong lĩnh vực hạ tầng và các ngành kinh tế mũi nhọn.
Thứ hai, Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã ban hành nhiều quyết sách quan trọng nhằm khơi thông nguồn lực, tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Trong bối cảnh đó, các doanh nghiệp cần tập trung thảo luận về các giải pháp sử dụng hiệu quả nguồn lực, tạo ra những đột phá mới, đồng thời phát huy vai trò tiên phong của doanh nghiệp nhà nước trong các lĩnh vực đổi mới như: đổi mới sáng tạo, nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển giao kỹ thuật hiện đại, sử dụng tiết kiệm năng lượng, phát triển bền vững, thân thiện với môi trường, chuyển đổi số,…
Bên cạnh đó, Phó Thủ tướng đề nghị các doanh nghiệp nhà nước mạnh dạn đề xuất những khó khăn, vướng mắc còn tồn tại để Chính phủ có thể tập trung tháo gỡ. Với những vấn đề thuộc thẩm quyền, Chính phủ sẽ trực tiếp giải quyết; đối với những vấn đề vượt thẩm quyền, chúng tôi sẽ báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, xử lý kịp thời.
Mục tiêu đặt ra là: Ít nhất 30% thủ tục hành chính sẽ được đơn giản hóa hoặc cắt giảm; chi phí sản xuất, kinh doanh giảm khoảng 3%; các chi phí khác như chi phí tuân thủ quy định, chi phí không chính thức cũng cần được giảm thiểu; ít nhất 30% điều kiện kinh doanh không cần thiết sẽ bị bãi bỏ.
Chúng ta cần phấn đấu để trong vòng hai đến ba năm tới, môi trường đầu tư của Việt Nam nằm trong nhóm ba nước dẫn đầu ASEAN.
Thực hiện yêu cầu của Tổng Bí thư tại Hội nghị với Ban Chính sách và Chiến lược Trung ương ngày 24/2 vừa qua, Hội nghị cần đề xuất những giải pháp cụ thể, hiệu quả để hiện thực hóa mục tiêu này, góp phần tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
Thứ ba, các doanh nghiệp nhà nước cần đưa ra giải pháp để phát huy vai trò tiên phong, đồng thời phối hợp chặt chẽ với các tập đoàn, tổng công ty tư nhân lớn trong các lĩnh vực mà đất nước đang cần.
Những lĩnh vực trọng yếu này bao gồm năng lượng tái tạo, công nghiệp công nghệ cao, trí tuệ nhân tạo (AI), chuyển đổi số, cũng như các ngành kinh tế đổi mới sáng tạo nhằm thúc đẩy mô hình tăng trưởng mới. Đặc biệt, cần tập trung vào việc khai thác và phát huy những động lực tăng trưởng mới, tạo đột phá về công nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Thứ tư, các doanh nghiệp nhà nước cần thể hiện trách nhiệm xã hội thông qua các chương trình hỗ trợ cộng đồng như xóa bỏ nhà tạm, nhà dột nát, phát triển nhà ở xã hội, đồng hành cùng người dân trong phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai.
Các đại biểu dự hội nghị.
Cuối cùng, Phó Thủ tướng mong muốn Hội nghị tập trung đưa ra những đề xuất, kiến nghị và cam kết cụ thể từ phía doanh nghiệp nhà nước. Trong các cuộc gặp trước đây với Thường trực Chính phủ, các doanh nghiệp nhà nước đã triển khai nhiều giải pháp quan trọng và đạt được những kết quả tích cực.
Tuy nhiên, vẫn còn những khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ. Vì vậy, Chính phủ mong muốn lắng nghe những hiến kế cụ thể để Chính phủ có thể triển khai hiệu quả các giải pháp nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế 8% trong năm 2025.
Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã phân công các thành viên phụ trách và kiểm tra việc thực hiện các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tại các địa phương. Đồng thời, Bộ Chính trị cũng đã phân công lãnh đạo Đảng, Nhà nước kiểm tra việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng, triển khai các nghị quyết quan trọng như Nghị quyết 35, Nghị quyết 18 và các vấn đề liên quan.
Chính phủ cam kết luôn sát cánh, đồng hành cùng cộng đồng doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng, sẵn sàng hỗ trợ tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư.
Phó Thủ tướng đề nghị các đại biểu tập trung vào trọng tâm thảo luận, nêu rõ các giải pháp, kiến nghị và đề xuất cụ thể.
Thứ trưởng Bộ Tài chính Cao Anh Tuấn trình bày báo cáo đề dẫn tại Hội nghị - Ảnh: VGP/Đình Hải
Trình bày báo cáo đề dẫn, Thứ trưởng Bộ Tài chính Cao Anh Tuấn nêu ra các quan điểm, định hướng phát triển doanh nghiệp nhà nước để đóng góp vào mục tiêu tăng trưởng 8% trong năm 2025 tạo tiền đề cho tăng trưởng hai con số trong giai đoạn 2026-2030 và phát triển đất nước nhanh và bền vững thời gian tới:
Thứ nhất, doanh nghiệp nhà nước cần tiếp tục phát huy vai trò là lực lượng quan trọng, nòng cốt trong phát triển kinh tế-xã hội, phát huy tối đa lợi thế và năng lực cạnh tranh từ đó mở đường trong các ngành, lĩnh vực kinh tế quan trọng của đất nước.
Tập trung huy động nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế (với nhu cầu vốn cho cả nền kinh tế khoảng 4 triệu tỉ đồng trong năm 2025), doanh nghiệp nhà nước là lực lượng dẫn dắt cùng với khu vực doanh nghiệp FDI và khu vực tư nhân trong nước là ba trụ cột để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đi lên từ nội lực hướng tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh.
Thứ hai, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh, năng lực quản trị doanh nghiệp theo các thông lệ quốc tế để từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh, chất lượng đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước.
Tăng cường đầu tư phát triển, xác định rõ và đầu tư vào các ngành, lĩnh vực "mũi nhọn" của nền kinh tế dựa trên cơ sở nền tảng công nghệ hiện đại, ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, xây dựng hệ sinh thái doanh nghiệp, hình thành các chuỗi giá trị, thúc đẩy hợp tác, liên kết đủ sức cạnh tranh ngang tầm với doanh nghiệp trong khu vực và quốc tế.
Thứ ba, quyết liệt thực hiện mục tiêu phát triển nhanh và bền vững, xanh hóa nền kinh tế, doanh nghiệp nhà nước cũng cần xác định nắm giữ vị trí tiên phong, đi đầu trong việc thực hiện cam kết giảm phát thải tại COP26, COP28 chuyển đổi sử dụng năng lượng sạch và giảm thải khí carbon; chú trọng xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, thúc đẩy mạnh mẽ khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn gắn với bảo đảm an ninh, an toàn để thúc đẩy phát triển kinh tế.
Thứ tư, Quốc hội, Chính phủ, các Bộ ngành, các cơ quan đại diện chủ sở hữu cần khẳng định mạnh mẽ hơn, thể hiện bằng hành động cam kết đồng hành cùng cộng đồng doanh nghiệp; xây dựng các cơ chế, hành lang pháp lý với những giải pháp đột phá, cơ chế chính sách phù hợp, khả thi để khuyến khích phát triển mạnh mẽ doanh nghiệp nhà nước.
Đổi mới tư duy quản lý đối với doanh nghiệp nhà nước, thực hiện triệt để nguyên tắc phân cấp, phân quyền đi đôi với kiểm tra giám sát, không can thiệp trực tiếp vào hoạt động quản lý điều hành của doanh nghiệp; kịp thời tháo gỡ khó khăn vướng mắc của doanh nghiệp nhà nước.
Đại diện lãnh đạo Bộ Tài chính cũng đề xuất các giải pháp để tiếp tục phát huy vai trò và hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong năm 2025, thúc đẩy tăng trưởng hai con số, phát triển đất nước nhanh và bền vững:
- Tập trung xây dựng ngay kịch bản phấn đấu tăng trưởng kinh tế năm 2025 của cả nước và từng địa phương ở mức hai con số; đề xuất các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, đột phá, khả thi, hiệu quả để thực hiện mục tiêu trong Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ.
- Tiếp tục làm mới, đẩy mạnh hơn nữa các động lực tăng trưởng truyền thống (đầu tư, tiêu dùng, xuất khẩu)
- Tạo đột phá, thúc đẩy mạnh mẽ các động lực tăng trưởng mới.
- Tập trung thực hiện cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực; nâng cao năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
- Huy động tối đa các nguồn lực xã hội cho phát triển, khai thác hiệu quả nguồn lực từ doanh nghiệp nhà nước.
Trên cơ sở các định hướng giải pháp nêu trên, các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Người đại diện phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp cần thực hiện một số nội dung sau:
- Cần quán triệt và quyết liệt thực hiện các Nghị quyết, Kết luận của Trung ương, Quốc hội, Chính phủ.
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế, pháp luật, cơ chế, trong đó trọng tâm và trước mắt là trình Quốc hội ban hành Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp (thay thế Luật số 69/2014/QH13) tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV để tạo hành lang pháp lý thông thoáng cho doanh nghiệp nhà nước hoạt động và phát triển, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, những điểm nghẽn, nút thắt hạn chế hoạt động của doanh nghiệp nhà nước trong thời gian vừa qua.
Các chính sách của Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà được xây dựng với cách thức tiếp cận mới, rõ ràng và trao quyền nhiều hơn cho doanh nghiệp nhà nước; phân công rõ, phân cấp mạnh, cụ thể trong việc quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp; tăng tính chủ động trong các quyết định sử dụng vốn đầu tư và mua sắm tài sản phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; tách bạch, phân định chức năng quản lý nhà nước với chức năng của chủ sở hữu vốn và doanh nghiệp; giảm bớt sự can thiệp trực tiếp của cơ quan đại diện chủ sở hữu; tăng cường phân công, phân cấp gắn với kiểm tra giám sát nhằm nâng cao tính tự chủ tự, chịu trách nhiệm và hạn chế thất thoát, lãng phí, tham ô, tham nhũng.
- Linh hoạt trong điều hành kinh tế vĩ mô.
- Về phía doanh nghiệp nhà nước, cần khẩn trương triển khai chiến lược phát triển giai đoạn 2021-2030; kế hoạch sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển 05 năm, Đề án cơ cấu lại doanh nghiệp trong đó ưu tiên tập trung đổi mới quản trị doanh nghiệp, đầu tư vào các ngành công nghệ cao, công nghệ số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, các dự án trọng tâm, trọng điểm quốc gia để tạo lực cho tăng trưởng và giữ vai trò dẫn dắt, thúc đẩy các doanh nghiệp cùng phát triển theo chuỗi giá trị.
Ông Lê Ngọc Sơn, Tổng Giám đốc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam) phát biểu tại Hội nghị - Ảnh: VGP/Đình Hải
Ông Lê Ngọc Sơn, Tổng Giám đốc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam): Năm 2024, mặc dù thị trường có nhiều biến động với ngành dầu khí, giá dầu biến động mạnh, biên lợi nhuận lọc hóa dầu giảm sâu, tới 50%, giá phân bón giảm mạnh và huy động khí tự nhiên cho sản xuất điện luôn thấp hơn nhiều so với khả năng của Petrovietnam (chỉ bằng 85%).
Tuy nhiên, dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Petrovietnam đã vượt qua khó khăn, hoàn thành vượt mức các kế hoạch từ 6-27% và tiếp tục thiết lập nhiều kỷ lục mới với tổng doanh thu của Tập đoàn năm 2024 lần đầu tiên vượt 1 triệu tỷ đồng. Nộp ngân sách Nhà nước đạt 165,6 nghìn tỷ đồng; đầu tư đạt trên 38 nghìn tỷ đồng, tăng 49% so với năm 2023.
Tập đoàn đã đẩy mạnh các hoạt động truyền thống, tiên phong trong lĩnh vực công nghiệp năng lượng ngoài khơi và lần đầu tiên tham gia chuỗi năng lượng toàn cầu, mở ra không gian phát triển mới. Bên cạnh đó, công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí đạt 3,5 nghìn tỷ đồng, tăng trên 13% so với năm 2023. Công tác an sinh xã hội cũng được đẩy mạnh.
Hết năm 2024, PetroVietNam đã hoàn thành toàn diện các chỉ tiêu tài chính kế hoạch 5 năm 2021-2025 và vượt từ 6-32% so với kế hoạch Thủ tướng giao. Dự kiến hết năm 2025, Petrovietnam sẽ hoàn thành và vượt toàn diện 13/13 chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm.
Đối với mục tiêu, nhiệm vụ năm 2025, ngay từ đầu năm, tình hình thế giới có nhiều biến động khó lường và tình hình Biển Đông diễn biến phức tạp, các quan hệ kinh tế, thương mại khó dự báo và giá dầu trong hơn 1 tháng qua có xu hướng giảm, gây khó khăn cho ngành dầu khí. Đặc biệt, tốc độ phát triển mạnh mẽ của công nghệ nền tảng, công nghệ số tạo ra thay đổi lớn trong tư duy sản xuất, kinh doanh.
Trong bối cảnh đó, thực hiện Kết luận số 76-KL/TW của Bộ Chính trị về ngành dầu khí và Nghị quyết 38/NQ-CP của Chính phủ, các chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại các chỉ thị và chỉ đạo trực tiếp tại Hội nghị tổng kết của Tập đoàn, Petrovietnam đã xây dựng, hoàn thiện Chiến lược phát triển ngành dầu khí Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2050, đã trình Bộ Công Thương và hiện đang hoàn thiện Chiến lược phát triển Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, nay là Tập đoàn Công nghiệp năng lượng Quốc gia Việt Nam.
Đồng thời, Petrovietnam đã hoạch định mục tiêu, giải pháp thực hiện kế hoạch năm 2025, góp phần vào tăng trưởng 2 con số của đất nước, bảo đảm tăng trưởng nhanh và bền vững.
Theo đó, mục tiêu năm 2025 đặt ra là: Về đầu tư, phấn đấu tăng trưởng ít nhất 15% so với thực hiện năm 2024. Từ mục tiêu đó, Petrovietnam xây dựng bộ giải pháp triển khai, trong đó, tập trung vào 3 nhóm sau.
Thứ nhất là nhóm giải pháp về quản trị: Cập nhật thay đổi về cơ chế, pháp luật và điều chỉnh đồng bộ với hệ thống quản trị của toàn tập đoàn theo mô hình quản trị hiện đại của thế giới.
Tiếp tục đánh giá và nâng cao hiệu quả, hiệu suất sử dụng tài sản, nguồn vốn; tối ưu về năng lực, hiệu lực hệ thống quản trị, kiểm soát nội bộ và quản trị rủi ro.
Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, kỹ thuật mới. Nâng cao năng suất lao động, tăng cường tiết kiệm, chống lãng phí.
Thứ hai là giải pháp về thị trường: Tiếp tục triển khai đánh giá, dự báo, nắm bắt các cơ hội để phát triển, mở rộng thị trường. Cung cấp dịch vụ kỹ thuật ra nước ngoài và kinh doanh quốc tế, đặc biệt tại các khu vực Bắc Mỹ, Trung Đông, Nga, Đông Nam Á… Phấn đấu mục tiêu doanh thu từ các hoạt động ở nước ngoài chiếm 30%.
Thứ ba là giải pháp về đầu tư: Tập trung quản trị danh mục đầu tư, chương trình đầu tư và dự án đầu tư. Phối kết hợp chặt chẽ với nhà đầu tư trong nước. Thúc đẩy tiến độ các dự án trọng điểm như Khí Lô B, Nhân Trạch 3 và 4; nâng cấp, mở rộng Nhà máy Lọc dầu Dung Quất và các dự án đưa vào khai thác ngoài khơi. Phấn đấu mục tiêu đầu tư các dự án mới và đẩy mạnh giải ngân vốn trong năm 2025 của PetroVietnam là 60,75 nghìn tỷ đồng.
Với những giải pháp trên và kết quả đạt được tích cực của gần 2 tháng đầu năm 2025, chúng tôi tin tưởng và phấn đấu hoàn thành mục tiêu kế hoạch đề ra, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng và cân đối lớn của nền kinh tế. Đặc biệt, quyết tâm hoàn thành mục tiêu đầu tư phát triển để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước trên 8% năm 2025.
Để thực hiện các nhiệm vụ trên, chúng tôi có 3 kiến nghị. Thứ nhất, việc thực hiện Kết luận 76 của Bộ Chính trị và Nghị quyết 38 của Chính phủ mở ra không gian phát triển mới, tạo nguồn lực để ngành dầu khí, Petrovietnam phát triển.
Do vậy, rất cần sự hỗ trợ của Chính phủ, các bộ, ngành để thể chế hóa thành các cơ chế, chính sách cụ thể mà trước hết là sửa đổi ngay trong điều lệ và quy chế tài chính của Petrovietnam.
Thứ hai, đối với các quy định về phân cấp, chủ trương đầu tư tại dự thảo Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp, chúng tôi mong muốn có phân cấp rõ ràng theo số tuyệt đối hoặc theo tỷ lệ trên vốn điều lệ và phân cấp mạnh hơn cho doanh nghiệp.
Petrovietnam đề xuất theo một trong các phương án sau. Thứ nhất, doanh nghiệp quyết định đầu tư đối với tổng mức đầu tư đến 5.000 tỷ đồng, hoặc 50% vốn điều lệ. Thứ 2, cơ quan đại diện chủ sở hữu quyết định chủ trương đầu tư đến 10.000 tỷ đồng. Thứ 3, Thủ tướng Chính phủ chủ trương đầu tư trên 10.000 tỷ đồng. Ngày 17/2, tại cuộc họp do Bộ trưởng Tài chính chủ trì, chúng tôi đã có kiến nghị cụ thể.
Thứ ba, kiến nghị Thủ tướng Chính phủ ủy quyền phê duyệt đối với một số vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai hoạt động tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí.
Ông Tào Đức Thắng, Chủ tịch kiêm TGĐ Tập đoàn công nghiệp viễn thông Quân đội (Viettel): Viettel xác định những sản phẩm làm ra sẽ tạo ra hệ sinh thái để các DN khác đồng hành cùng phát triển - Ảnh: VGP/Đình Hải
Ông Tào Đức Thắng, Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Tập đoàn công nghiệp viễn thông Quân đội (Viettel): Mục tiêu chúng ta đặt ra là tăng trưởng 8% năm nay và các năm tiếp theo tăng trưởng 2 con số. Nhìn vào cách làm cũ, nếu tăng trưởng như vậy rất thách thức, nhất là với các doanh nghiệp truyền thống. Còn nếu đổi mới sáng tạo, áp dụng khoa học công nghệ, chúng ta phải đổi mới cái cũ để tăng trưởng 2 con số mà vẫn duy trì không gian mới.
Viettel vẫn tập trung vào các lĩnh vực truyền thống như: Viễn thông, chuyển phát, công nghệ số, công nghệ công nghiệp.
Đối với viễn thông, phải tiếp tục duy trì tăng trưởng, phải để hàm lượng sản phẩm mới hơn, tốt hơn như là bên cạnh thuê bao số, cần có thêm hộ gia đình số. Bên cạnh đó, phải tiếp tục phát triển chiều ngang, mở rộng thị trường nước ngoài… Chúng tôi phấn đấu giai đoạn 2025-2030 tăng trưởng 8-10% lĩnh vực này.
Về công nghệ số, Nghị quyết 57 ra đời là động lực rất lớn cho chúng tôi. Hiện nay chúng tôi nhận được rất nhiều đề nghị từ địa phương, doanh nghiệp lớn muốn Viettel tư vấn, đề xuất giải pháp về chuyển đổi số. Đây là động lực tăng trưởng cho các địa phương mà cũng chính là động lực tăng trưởng của Viettel. Mục tiêu tăng trưởng trong lĩnh vực này chúng tôi đặt ra là 25-30%.
Đối với công nghiệp công nghệ cao, lĩnh vực này không thể làm ngay được mà phải có quá trình nghiên cứu. Có những công trình chúng tôi đã nghiên cứu hàng chục năm nay và đang đạt thành quả trong lĩnh vực quân sự, dân sự. Lĩnh vực này Viettel cũng đặt mục tiêu tăng trưởng 30%.
Lĩnh vực chuyển phát, bưu chính, logistic là lĩnh vực tiềm năng nhưng rất phân mảng, các doanh nghiệp nhỏ làm chuyển phát rất nhiều, cần có DN đi đầu trong lĩnh vực này. Chúng tôi cũng đang được Chính phủ, Bộ Quốc phòng hỗ trợ thành lập các trung tâm chuyển phát lớn tại các cửa khẩu biên giới, các cửa khẩu thông minh… Việc này không chỉ giúp Viettel tăng trưởng trong lĩnh vực này mà còn góp phần tăng năng suất sản xuất, lưu thông hàng hoá.
Với những động lực như vậy, với mục tiêu tăng trưởng 8% đã đặt ra và tăng trưởng 2 con số, chúng tôi tin là khó nhưng sẽ làm được. Chúng tôi cũng xác định những sản phẩm làm ra sẽ tạo ra hệ sinh thái để các doanh nghiệp khác đồng hành cùng phát triển.
Viettel đặt mục tiêu năm nay phát triển 5G phủ khắp từ thành thị đến các khu công nghiệp, đảm bảo các nơi này 50% phải có 5G và bà con nhân dân hoặc doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng đều có cơ hội kết nối để tăng trưởng. Về mặt công nghiệp cũng vậy, những nghiên cứu của Viettel đều góp phần phục vụ cho các sản phẩm trong hệ sinh thái.
Về kiến nghị, đầu tiên với Nghị quyế 57 và Nghị quyết 03, chúng tôi rất mong được tham gia triển khai và mong những chính sách ban hành ra phải đi vào cuộc sống.
Thứ hai, chúng tôi cho rằng, muốn tăng trưởng 8% và tăng trưởng 2 con số trong các năm tiếp theo, cần có những cái mới và phải được đầu tư ngay từ bây giờ. Các công trình nghiên cứu có thể thành công hay không thì ngay từ bây giờ, cần có thử nghiệm, đánh giá, cần có những doanh nghiệp mạnh dạn áp dụng cái mới.
Cuối cùng, Viettel cho rằng chắc chắn phải vươn ra nước ngoài và điều này không hề dễ, chúng tôi và các doanh nghiệp khách đều cần có sự hỗ trợ từ Chính phủ.
Ông Nguyễn Anh Tuấn, Tổng Giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) kiến nghị xem xét tạo điều kiện hợp lý cho doanh nghiệp để doanh nghiệp chủ động trong đầu tư sản xuất - Ảnh: VGP/Đình Hải
Ông Nguyễn Anh Tuấn, Tổng Giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN): Tại hội nghị này, tôi xin thay mặt Tập đoàn Điện lực Việt Nam báo cáo Phó Thủ tướng Chính phủ và toàn thể Hội nghị về kế hoạch và các giải pháp của Tập đoàn Điện lực Việt Nam góp phần đáp ứng mục tiêu tăng trưởng kinh tế, phát triển đất nước nhanh và bền vững theo chỉ đạo của Chính phủ.
Để thực hiện mục tiêu cho năm 2025 thì ngay từ các tháng cuối năm 2024, Tập đoàn Điện lực Việt Nam và các đơn vị thành viên đã xây dựng các kịch bản và tích cực triển khai các giải pháp, nhiệm vụ cần thiết để chuẩn bị "từ sớm, từ xa" với mục tiêu quan trọng nhất là đảm bảo cung ứng điện cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước và đời sống nhân dân.
Trên tinh thần đó, các kỹ sư, cán bộ nhân viên của EVN và các đơn vị đã tổ chức làm việc liên tục, xuyên lễ, Tết trên công trường và tổ chức vận hành các trạm điện, nhà máy điện 24/7 để đảm bảo dòng điện liên tục cho đất nước.
Với mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8% trở lên theo Nghị quyết số 25/NQ-CP của Chính phủ, Tập đoàn dự kiến nhu cầu điện sẽ tăng trưởng tương ứng 12-13% so với năm 2024. Đây là thách thức rất lớn với EVN nói riêng và các doanh nghiệp tham gia vào ngành điện nói chung trong việc đảm bảo cung ứng đủ điện trong năm 2025 và các năm tới.
Thời gian qua, EVN đã chủ động triển khai các nhiệm vụ, giải pháp sau:
Trong sản xuất và cung ứng điện, tập đoàn đã tập trung huy động hiệu quả mọi nguồn lực trong sản xuất, đảm bảo độ tin cậy, sẵn sàng và đồng bộ trong tất cả các khâu: phát điện, mua điện, nhập khẩu điện, truyền tải điện, phân phối điện, quyết tâm hoàn thành cao nhất nhiệm vụ chính trị là cung ứng đủ điện phục vụ phát triển kinh tế xã hội và đời sống nhân dân, cấp điện an toàn, ổn định phục vụ Đại hội Đảng bộ các cấp và các sự kiện chính trị, xã hội lớn trong năm 2025.
Chủ động xây dựng và chuẩn bị sẵn sàng các phương án cung ứng đủ điện trong trường hợp nhu cầu điện năm 2025 tăng trưởng 12-13% tương ứng với mục tiêu tăng trưởng cả nước năm 2025 đạt 8% trở lên.
Nỗ lực cao nhất để cùng với các tập đoàn nhà nước đảm bảo nhiên liệu than, khí cho sản xuất điện, chủ động sẵn sàng các giải pháp để không để xảy ra thiếu nhiên liệu cho phát điện; siết chặt kỷ luật vận hành, chuẩn bị đủ vật tư thiết bị dự phòng, đảm bảo độ khả dụng cao nhất, đảm bảo vận hành ổn định, tin cậy, đặc biệt trong các tháng cao điểm mùa khô năm 2025.
Trong đầu tư xây dựng, Tập đoàn đã phát huy tinh thần trách nhiệm cao nhất, huy động cả hệ thống chính trị, tập trung mọi nguồn lực để thúc đẩy và khẩn trương hoàn thành nhanh nhất đồng thời đảm bảo chất lượng các công trình, dự án điện. Trong đó phấn đấu hoàn thành 253 dự án lưới điện từ 110-500 kV để tăng cường năng lực của hạ tầng lưới điện truyền tải, phân phối, đáp ứng nhu cầu phát triển của các địa phương.
Đồng thời phấn đấu hoàn thành các công trình trọng điểm như: Nhà máy thủy điện Hòa Bình mở rộng, Nhà máy thủy điện Quảng Trạch I hoà lưới phát điện tổ máy 1, đường dây 500 kV Lào Cai - Vĩnh Yên, đường dây 500/220 kV Nho Quan - Phủ Lý - Thường Tín, cấp điện cho huyện Côn Đảo...
Đối với tiết kiệm, chống lãng phí, tiêu cực, tham nhũng, Tập đoàn đã triển khai quyết liệt, đồng bộ những nhiệm vụ, giải pháp thực hành tiết kiệm, chống lãng phí của từng đơn vị để tạo sự lan tỏa mạnh mẽ, trở thành hành động tự nguyện và tự giác của mỗi cán bộ, đảng viên và người lao động; đi kèm với biện pháp xử lý nghiêm các cá nhân, tập thể, nhất là người đứng đầu đơn vị để xảy ra thất thoát, lãng phí.
Ngoài ra, Tập đoàn cũng khẩn trương hoàn thiện để án sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của các đơn vị theo theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị Trung ương khóa XII; tiếp tục đổi mới toàn diện, sắp xếp tổ chức bộ máy của toàn Tập đoàn Điện lực Quốc gia Việt Nam tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Trong tăng cường nghiên cứu, phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, Tập đoàn đã triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Tập đoàn đang tổ chức triển khai quyết liệt các nhiệm vụ, chương trình chuyến đổi số và phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh của Tập đoàn, mang lại hiệu quả thiết thực.
Tập đoàn đặt mục tiêu phấn đấu dài hạn đến năm 2030 đạt được các mục tiêu sau:
Xây dựng và phát triển EVN thông minh, bền vững trên cơ sở chuyển đổi số toàn diện, phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, ứng dụng sâu rộngcác công nghệ số như trí tuệ nhân tạo, IoT, điện toán đám mây... trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của tập đoàn.
Xây dựng EVN là doanh nghiệp dẫn đầu về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong lĩnh vực điện năng.
Phát triển hạ tầng số, công nghệ số trên nguyên tắc "hiện đại, đồng bộ, an ninh, an toàn, hiệu quả, tránh lãng phí", khai thác tối đa tiềm năng của dữ liệu.
Thiết lập các cơ sở dữ liệu chuyên ngành và trung tâm dữ liệu ngành điện, là cơ sở cung cấp cho các nền tảng trí tuệ nhân tạo sử dụng trong các bài toán phân tích, tính toán tối ưu vận hành nhà máy điện, lưới điện truyền tải, phân phối hiệu quả.
Bảo đảm an ninh mạng, an ninh dữ liệu, an toàn thông tin trên không gian mạng của tổ chức và cá nhân là yêu cầu xuyên suốt, không thể tách rời trong quá trình phát triển khoa học, công nghệ, đối mới sáng tạo và chuyển đối số.
Tại Hội nghị này, Tập đoàn có một kiến nghị. Đó là sớm hiện thực hóa, đổi mới và cải cách thể chế pháp luật, có cơ chế chính sách, tạo không gian phát triển mới cho các doanh nghiệp nhà nước.
Riêng lĩnh vực về phân cấp đầu tư, có thể xem xét theo Luật Doanh nghiệp. Vì hiện nay các dự án của EVN phần lớn là trên 5 nghìn tỷ đồng, những dự án dưới 5 nghìn tỷ đồng rất ít, nên có thể xem xét tạo điều kiện hợp lý cho doanh nghiệp để doanh nghiệp chủ động trong đầu tư sản xuất.
Đặc biệt, việc đổi mới theo Nghị quyết về phát triển khoa học và công nghệ, hiện nay chúng tôi rất muốn đồng hành cùng với Viettel, VNPT hay FPT để thực hiện chuyển đổi số. Tuy nhiên, còn những quy định trong Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư khiến cho việc hợp tác chưa được cụ thể. Vì thế chúng tôi mong muốn, cần có quy định rõ ràng trong thể chế để thực hiện việc hợp tác trên.
Ông Vũ Anh Tuấn, Tổng Giám đốc Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) - Ảnh: VGP/Đình Hải
Ông Vũ Anh Tuấn, Tổng Giám đốc Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV): Năm 2024, TKV đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Đặc biệt đã đảm bảo cung ứng đủ than cho sản xuất điện, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.
Về nhiệm vụ thời gian tới, tập trung mọi nguồn lực để phát triển TKV trở thành Tập đoàn kinh tế vững mạnh, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia; từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh trên cơ sở tập trung vào các lĩnh vực chủ yếu: Công nghiệp than, công nghiệp khoáng sản, công nghiệp điện, công nghiệp VLNCN, cơ khí mỏ và phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ hỗ trợ phù hợp. Trên cơ sở đó TKV sẽ tập trung chỉ đạo và tổ chức thực hiện để đạt được các chỉ tiêu chủ yếu trong giai đoạn 2025-2030 như sau:
Đối với năm 2025, với than sạch sản xuất, Tập đoàn phấn đấu đạt 38,615 triệu tấn/Kế hoạch 36,852 triệu tấn, tương ứng tăng 0,5% so với thực hiện năm 2024 (38,425 triệu tấn) và tăng 4,8% so với kế hoạch năm 2025.
Với than nhập khẩu, chúng tôi phấn đấu 13,5 triệu tấn/Kế hoạch 13,2 triệu tấn, tương ứng tăng 22,9% so với thực hiện năm 2024 (10,989 triệu tấn) và tăng 2,3% so với kể hoạch năm 2025.
Với than thành phẩm, phấn đấu đạt 52,115 triệu tấn tương ứng tăng 5,5% so với so với thực hiện năm 2024 và kế hoạch. Trong đó, than thành phẩm tự sản xuất 38,62 triệu tấn; than thành phẩm nhập khẩu 13,5 triệu tấn.
Than tiêu thụ phấn đấu đạt 50 triệu tấn, bằng 100% kế hoạch và tăng thêm 6% so với thực hiện năm 2024. Đảm bảo cung ứng đủ than cho sản xuất điện và các nhu cầu trong nước.
Các sản phẩm Khoáng sản - hóa chất (đồng tấm, vàng, alumin, thuốc nổ, tiền chất thuốc nổ) điện sản xuất phấn đấu tăng trưởng từ 2- trên 10% so với thực hiện năm 2024 và kế hoạch.
Tổng doanh thu, toàn Tập đoàn phấn đấu đạt 180 nghìn tỷ đồng, tương ứng tăng 7,6% so với thực hiện năm 2024.
Lợi nhuận trước thuế phấn đấu đạt trên 6,6 nghìn tỷ đồng, tương ứng tăng trên 6,9% so với thực hiện năm 2024.
Nộp ngân sách nhà nước phấn đấu ở mức cao nhất, tăng thêm 5,1% so với thực hiện năm 2024.
Đặc biệt, trong năm 2025, tổng giá trị đầu tư là 11.000 tỷ đồng. Theo đó, chúng tôi sẽ thực hiện đảm bảo đúng tiến độ các dự án đầu tư trọng điểm; hoàn thiện thủ tục và khởi công xây dựng trong năm 2025 các dự án như: Dự án khai thác hầm lò phần mở rộng mỏ Hà Ráng; Dự án Khai thác hầm lò khu Tân Yên - mỏ Đông Tràng Bạch; Dự án khai thác cụm mỏ Cọc Sáu - Đèo Nai; Dự án đầu tư xây dựng Nhà máy sàng tuyển than Nam Mẫu; Dự án cải tạo nâng cấp khâu tuyển sâu cho Nhà máy sàng tuyển than Lép Mỹ; Dự án nâng công suất trạm xử lý nước thải Cọc Sáu; Nhà máy sản xuất Amoniac; Dự án thải khô bùn đỏ nhà máy Alumin Tân Rai tại Lâm Đồng; Mở rộng, nâng công suất mỏ đồng Sin Quyền tại Lào Cai...
Đối với giai đoạn 2026 - 2030, Tập đoàn phấn đấu sản lượng than thương phẩm là 261,5 triệu tấn, bằng 110,4% dự kiến thực hiện giai đoạn 2021-2025.
Tổng doanh thu toàn Tập đoàn là 918,3 nghìn tỷ đồng, bằng 111,9% dự kiến thực hiện giai đoạn 2021-2025.
Chúng tôi phấn đấu nộp ngân sách nhà nước 132,56 nghìn tỷ đồng, bằng 110,2% dự kiến thực hiện giai đoạn 2021-2025.
Tổng giá trị đầu tư là 150 nghìn tỷ đồng, bằng 305,1% dự kiến thực hiện giai đoạn 2021-2025. Trong đó đầu tư hoàn thành đưa vào hoạt động một số dự án tiêu biểu trong giai đoạn 2025-2030 như: 12 mỏ than lộ thiên và hầm lò với sản lượng khoảng 18,5 triệu tấn than nguyên khai; Tổ hợp bauxite - alumin Nhân Cơ, Đắk Nông công suất 1,20 triệu tấn alumin/năm với tổng mức đầu tư 35.520 tỷ đồng; Nhà máy sản xuất Amoniac tại Thái Bình, công suất 90.000-100.000 tấn/năm với tổng mức đầu tư 6.500 tỷ đồng; Nhà máy Nhiệt điện Na Dương II công suất 110 MW đi vào hoạt động năm 2026 với tổng mức đầu tư gần 5.000 tỷ đồng.
Về giải pháp, để đạt được các mục tiêu tăng trưởng đã nêu trên, TKV sẽ tập trung triển khai thực hiện có hiệu quả các giải pháp chủ yếu:
Một là tăng cường công tác quản trị doanh nghiệp theo hướng tiên tiến, hiện đại; hoàn thiện mô hình - tổ chức theo hướng tinh gọn, hiệu quả nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh tranh.
Hai là thúc đẩy công tác đầu tư, kiểm soát chặt chẽ tiến độ và chất lượng các dự án đặc biệt là các dự lớn thuộc các lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính của tập đoàn đồng thời tích cực triển khai thực các dự án đầu tư khác khi được Chính phủ giao cho.
Ba là đẩy mạnh công tác nghiên cứu, đổi mới sáng tạo; áp dụng các tiến bộ của khoa học và công nghệ; thực hiện chuyển đổi số trên tất cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh của Tập đoàn.
Bốn là tiếp tục triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó biến đổi khí hậu nhằm đảm bảo phát triển bền vững tập đoàn theo hướng xanh- sạch- đẹp, hài hòa với sự phát triển chung của các địa phương và cả nước.
Năm là quan tâm thực hiện và tích cực tham gia công tác an sinh xã hội tại các địa phương có hoạt động sản xuất kinh doanh của Tập đoàn với mục tiêu đồng hành phát triển hài hòa với địa phương và môi trường...
Về các đề xuất, Tập đoàn đề nghị cho phép không đấu giá quyền khai thác khoáng sản để TKV sớm xin cấp giấy phép thăm dò, giấy phép khai thác các mỏ khoáng sản, đặc biệt là các mỏ khoáng sản thuộc các tỉnh Lào Cai, Lâm Đồng và Đắk Nông.
Bên cạnh đó, cho phép sử dụng Quy hoạch 893/QĐ-TTg ngày 26/7/2023 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 làm căn cứ cấp Giấy phép hoạt động khoáng sản than như đề nghị của Bộ Công Thương; Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Đồng thời chỉ đạo các bộ, ban ngành Trung ương xem xét xây dựng, sửa đổi, bổ sung để trình cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật theo hướng tăng cường tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho doanh nghiệp để khai phóng các nguồn lực, thúc đẩy tăng trưởng cho doanh nghiệp và nền kinh tế đất nước.
Ngoài ra chúng tôi kiến nghị sớm phê duyệt điều chỉnh tăng vốn điều lệ để đảm bảo mục tiêu phát triển TKV trở thành tập đoàn kinh tế vững mạnh, góp phần đăm bảo an ninh năng lượng quốc gia, đảm bảo đủ vốn điều lệ để TKV có nguồn vốn tự có và huy động vốn của các tổ chức tín dụng nhằm tham gia và thực hiện có hiệu quả, đúng tiến độ các dự án đầu tư mở rộng sản xuất với sản lượng than cho nền kinh tế ngày càng cao cũng như đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia theo nhiệm vụ Nhà nước giao.
Ông Nguyễn Thanh Tùng, Chủ tịch HĐQT Vietcombank đề xuất cần có ưu đãi thuế phù hợp dành cho các doanh nghiệp có tiềm năng trở thành trụ cột trong chuỗi cung ứng của các ngành kinh tế chủ chốt tại Việt Nam - Ảnh: VGP/Đình Hải
Ông Nguyễn Thanh Tùng, Chủ tịch HĐQT Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank): Trong cuộc họp giữa Thủ tướng Chính phủ và đại diện 15 ngân hàng thương mại hàng đầu Việt Nam vào ngày 11/2 vừa qua, chúng tôi đã báo cáo Chính phủ định hướng và giải pháp tăng trưởng tín dụng của Vietcombank trong năm 2025.
Theo đó, ngân hàng đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng tối thiểu 16%, cao gấp đôi mục tiêu tăng trưởng GDP. Chúng tôi sẽ tập trung tín dụng vào các lĩnh vực có tính chất động lực cho tăng trưởng kinh tế - xã hội, đặc biệt là hạ tầng, năng lượng, giao thông và sản xuất phục vụ xuất khẩu.
Trong phạm vi hội nghị hôm nay, tôi xin tập trung vào một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước hướng tới phát triển bền vững và đóng góp vào sự bứt phá của nền kinh tế trong thời gian tới.
Chúng tôi đề xuất tập trung vào bốn nhóm vấn đề chính để nâng cao năng lực của doanh nghiệp nhà nước: Nâng cao hiệu quả hoạt động; thúc đẩy ứng dụng công nghệ và đổi mới sáng tạo; thu hút và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; tăng cường quản trị rủi ro, nhất là trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động và thách thức.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động, các doanh nghiệp nhà nước cần sớm áp dụng các chuẩn mực quản trị tiên tiến, hướng đến các tiêu chuẩn quốc tế. Trước mắt, việc tinh giản bộ máy là cần thiết nhằm thiết lập hệ thống quản trị và kiểm soát nội bộ theo các tiêu chuẩn quốc tế như ISC.
Về cơ chế chính sách, chúng tôi kiến nghị Chính phủ tiếp tục có những chính sách hỗ trợ phù hợp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nhà nước phát triển bền vững.
Chúng tôi đánh giá cao ý kiến của Thủ tướng về việc có những chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp có đóng góp tích cực cho nền kinh tế.
Ngoài ra, chúng tôi đề xuất có thêm cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp trong nước có hàm lượng sản xuất nội địa cao, tăng cường liên kết với các doanh nghiệp trong nước để thúc đẩy chuỗi cung ứng trong nước và nâng cao giá trị gia tăng.
Hiện nay, trong quan hệ tín dụng, chúng tôi nhận thấy có những cơ chế điều tiết và ưu đãi nhất định dành cho các doanh nghiệp nước ngoài, trong khi các doanh nghiệp Việt Nam vẫn gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn.
Điều quan trọng là các doanh nghiệp trong nước cần gắn kết trách nhiệm của người đứng đầu cũng như toàn thể người lao động để tạo ra động lực trong hoạt động quản trị, sản xuất và kinh doanh.
Nhóm vấn đề thứ hai là thúc đẩy doanh nghiệp ứng dụng công nghệ và đổi mới sáng tạo và nâng cao hiệu quả hoạt động. Chúng tôi cho rằng cần có cơ chế thử nghiệm và chính sách hỗ trợ triển khai mô hình kinh doanh mới, đặc biệt là những sáng kiến ứng dụng công nghệ cao, tiết kiệm năng lượng và thân thiện với môi trường. Điều này không chỉ giúp gia tăng năng suất mà còn nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trước sự cạnh tranh khốc liệt từ doanh nghiệp nước ngoài.
Về chính sách thuế, cần có ưu đãi phù hợp dành cho các doanh nghiệp có tiềm năng trở thành trụ cột trong chuỗi cung ứng của các ngành kinh tế chủ chốt tại Việt Nam. Chính sách không chỉ hỗ trợ những doanh nghiệp đã có kết quả tốt mà còn cần tạo điều kiện để các doanh nghiệp tiềm năng phát triển, đóng góp vào nền kinh tế trong dài hạn.
Bên cạnh đó, cần xây dựng cơ chế riêng, linh hoạt để cho phép các doanh nghiệp nhà nước chấp nhận rủi ro có kiểm soát khi đầu tư vào các dự án có hàm lượng công nghệ cao, đổi mới sáng tạo hoặc đóng vai trò quan trọng trong đảm bảo an ninh quốc gia, đặc biệt trong các lĩnh vực như năng lượng và quốc phòng.
Vấn đề thứ ba liên quan đến việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho khu vực doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là các tập đoàn và tổng công ty lớn. Hiện nay, cần có những cơ chế đặc thù để thu hút và tuyển dụng nhân lực chất lượng cao cả trong nước và quốc tế. Đặc biệt, cần ưu tiên các cơ chế đãi ngộ đối với những nhân sự có năng lực trong các lĩnh vực như chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo.
Hiện tại, mức thu nhập của lao động trong các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn chênh lệch đáng kể so với doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nước ngoài, khiến việc thu hút và giữ chân nhân tài gặp nhiều khó khăn.
Thứ tư trong bối cảnh kinh tế thế giới đối mặt với nhiều thách thức, chúng tôi kiến nghị cần tăng cường quản trị rủi ro.
Ngoài ra, trong quá trình sắp xếp, tinh giản bộ máy cần sớm có các đầu mối xử lý các công việc liên quan đến triển khai dự án của doanh nghiệp.
Chúng tôi nhận thấy cần có sự điều chỉnh trong quy định số 13 của Thủ tướng Chính phủ về các dự án đầu tư có quy mô lớn (vượt 15-25% tổng vốn tự có của khách hàng). Việc sửa đổi này sẽ giúp hệ thống ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng thương mại nhà nước, có điều kiện cấp tín dụng cho các tập đoàn lớn như EVN, PVN, TKV… trong việc triển khai các dự án lớn, quan trọng trong thời gian tới.
Ông Đặng Sỹ Mạnh, Chủ tịch HĐTV Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam, phát biểu tại Hội nghị - Ảnh: VGP/Đình Hải
Ông Đặng Sỹ Mạnh, Chủ tịch HĐTV Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam: Năm 2024 Tổng công ty Đường sắt Việt Nam xác định là năm thuận lợi, đạt được kết quả khả quan. Về sản lượng toàn Tổng công ty đạt trên 10 nghìn tỷ đồng, tăng 7,7% so với cùng kỳ; doanh thu đạt trên 9,6 nghìn tỷ đồng, tăng 7,9%. Trong năm 2024, Tổng công ty đưa nhiều sản phẩm mới ra thị trường được người dân đón nhận tích cực.
Bên cạnh đó, Tổng công ty đã thực hiện tái cơ cấu theo chỉ đạo Thủ tướng Chính phủ: Sắp xếp lại các ban quản lý dự án; các chi nhánh đầu máy, hợp nhất 2 công ty vận tải; đưa 23 chương trình, giải pháp số vào ứng dụng trong quản trị, điều hành, chăm sóc khách hàng.
Tổng công ty trân trọng cảm ơn sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, trong thời gian rất ngắn đã trình và được Quốc hội thông qua 2 siêu dự án Đường sắt. Khi thực hiện hoàn thành, Đường sắt chắc chắn sẽ trở thành "trục xương sống, động mạch chủ của nền kinh tế ", xứng đáng với vai trò của ngành đường sắt như các nước có đường sắt phát triển.
Năm 2025, ngoài việc tăng tốc, bứt phá, về đích của nhiệm kỳ, còn là năm Tổng công ty tập trung cao độ để triển khai thực hiện các nội dung liên quan về chủ trương đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc – Nam và tuyến đường sắt Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng.
Đồng thời, thực hiện các văn bản chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về mục tiêu tăng trưởng các ngành, lĩnh vực và địa phương. Bám sát chủ đề hành động của Chính phủ năm 2025 "Kỷ cương trách nhiệm; chủ động kịp thời; tinh gọn hiệu quả; tăng tốc bứt phá."
Phát huy những thành quả đạt được trong thời gian qua, nghiên cứu thị trường, tìm hiểu kinh nghiệm của đường sắt các nước trên thế giới, năm 2025 và các năm tiếp theo, Tổng công ty đặt mục tiêu tăng trưởng năm 2025 đạt 8% và các năm tiếp theo đạt được hai con số. Tổng công ty tập trung thực hiện các giải pháp trọng tâm sau:
Thứ nhất là nhóm giải pháp cho đường sắt hiện hữu:
Về vận tải: Tiếp tục đưa nhiều sản phẩm vận tải khách gắn với du lịch, vừa di chuyển vừa trải nghiệm, hợp tác chặt chẽ với doanh nghiệp, đối tác, địa phương hình thành các chuỗi kết nối về dịch vụ, giao thông đầu cuối. Hợp tác đẩy mạnh việc khai thác dịch vụ trên tàu, dưới ga.
Tăng cường việc vận tải hàng hóa trong nước và liên vận nước ngoài, đặc biệt là việc đưa cửa khẩu vào sâu trong nội địa Việt Nam và tăng cường vận tải liên vận quốc tế qua châu Âu, Tây Á.
Về công nghiệp: Nghiên cứu đầu tư, đóng mới bổ sung sức kéo, sức chở cho vận tải hàng, vận tải khách. Phát huy các sản phẩm tự hành, chuyển đổi xanh, các sản phẩm chất lượng cao, độc đáo, như toa xe cao cấp, toa xe mui trần, xe đạp trên đường sắt…
Về hạ tầng: Đề xuất cải tạo, nâng cấp, đảm bảo an toàn và phục vụ nâng cao chất lượng vận tải, phục vụ du lịch. Đề xuất các dự án hàn liền ray, nâng cấp các đoạn đường sắt xuyên tâm thành phố, kết nối khu công nghiệp, cảng biển.
Về khai thác tài sản: Tập trung triển khai thực hiện Nghị định 15/2025/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý tài sản, phát triển các trung tâm logistic, dịch vụ hỗ trợ vận tải để nâng cao năng lực cạnh tranh. Tổ chức kiểm kê, phân loại tài sản, tổ chức khai thác tài sản đảm bảo đúng quy định và đạt hiệu quả.
Về quản trị điều hành: Tiếp tục thực hiện tinh gọn… theo Nghị quyết 18. Tăng cường ứng dụng phát triển khoa học công nghệ, chuyển đổi số mạnh mẽ theo Nghị quyết 57.
Tăng năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh
Thứ hai là nhóm giải pháp cho đường sắt mới, đường sắt tốc độ cao:
Ngoài việc phối hợp chặt chẽ với cơ quan, đơn vị thuộc Bộ Giao thông vận tải triển khai Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam, Dự án đường sắt Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng và các dự án đường sắt khác; Tổng công ty cần tập trung triển khai ngay các nhiệm vụ tại các Nghị quyết 172, 187 của Quốc Hội, đó là:
"Tổng công ty Đường sắt Việt nam tiếp nhận quản lý, bảo trì kết cấu hạ tầng và tổ chức vận hành, khai thác; huy động các doanh nghiệp khác đầu tư phương tiện; tiếp tục tái cơ cấu, xây dựng mô hình quản lý, bảo trì kết cấu hạ tầng bảo đảm thống nhất, hiện đại, hiệu quả; tham gia phát triển công nghiệp đường sắt".
Qua nghiên cứu quy mô thị trường ĐS, nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, sau khi làm việc với các đối tác liên quan trong và ngoài nước; Tổng công ty đề xuất việc xây dựng và phê duyệt sớm 3 đề án sau:
Thứ nhất: Đề án tái cơ cấu Tổng công ty Đường sắt Việt Nam theo hướng có các tổng công ty con về hạ tầng, vận tải, công nghiệp, và học viện đào tạo. Với năng lực phù hợp để xứng tầm với một doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, thực hiện nhiệm vụ mà Nghị quyết 172, 187 của Quốc hội đã giao.
Thứ hai: Đề án đào tạo phát triển nguồn nhân lực đường sắt cả cho đường sắt tốc độ cao, đường sắt Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng và đường sắt Đô thị:
Dự kiến nhu cầu nhân lực cho công tác quản lý, khai thác, bảo trì tuyến đường sắt mới là 16.000 lao động với chi phí đào tạo dự kiến 10.000 tỷ đồng;
Như vậy rất cần 1 đề án đào tạo nguồn nhân lực để đưa ra quy mô, thời gian, thời lượng, cơ cấu ngành nghề, trình độ, chi phí, chính sách… kịp thời cho việc xây dựng, quản lý, khai thác vận hành, bảo trì.
Thứ ba: Đề án về phát triển công nghiệp và chuyển giao công nghệ:
Dự kiến nhu cầu đóng mới thiết bị phương tiện đầu máy toa xe giai đoạn 2030-2050 cho Đường sắt hiện tại, các tuyến đường sắt đô thị, đường sắt tốc độ cao, đường sắt Lào Cai-Hà Nội-Hải Phòng như sau: 261 đầu máy, 1.100 toa xe ĐS TĐC, 1.000 toa xe khách, 7.000 toa xe hàng, 1.500 toa xe đường sắt đô thị…
Cần phân tích công nghệ lõi, an ninh – quốc phòng, công nghiệp vệ tinh, hình thành hệ sinh thái công nghiệp. Phân tích tỉ lệ nội địa hóa, nhập khẩu, xuất khẩu, lắp ráp, chế tạo… cần các chính sách phù hợp.
Qua tính toán sơ bộ, Dự kiến cần 1 Tổ hợp công nghiệp có diện tích khoảng 200ha trong đó có các phân khu chức năng, dây chuyền sản xuất, lắp ráp. Chi phí xây dựng và thiết bị dự kiến 200 triệu USD (chưa kể đất).
Vì vậy rất cần 1 đề án phát triển công nghiệp cho tất cả các loại hình đường sắt.
Bên cạnh đó, Tổng công ty chuẩn bị nguồn lực chủ yếu từ 20 công ty hạ tầng để tham gia tích cực vào công tác xây dựng các tuyến đường sắt, góp phần đẩy nhanh tiến độ xây dựng và tích lũy kinh nghiệm thực hiện bảo trì.
Năm 2025, Tổng công ty kính mong tiếp tục nhận được sự quan tâm, hỗ trợ, tạo điều kiện Chính phủ, Thủ tướng chính phủ, các ban, bộ, ngành Trung ương và địa phương; sự phối hợp, hợp tác chặt chẽ, hiệu quả của các tập đoàn, doanh nghiệp, các địa phương nơi có đường sắt đi qua.
Ông Phạm Văn Thanh, Chủ tịch Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam, đề nghị có cơ chế chính sách thúc đẩy các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu đẩy mạnh kinh doanh nhiên liệu sinh học và nhiên liệu tiêu chuẩn Euro5 - Ảnh: VGP/Đình Hải
Ông Phạm Văn Thanh, Chủ tịch Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex): Năm 2024, được sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các bộ, ngành liên quan, Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, cụ thể, sản lượng đạt cao nhất từ trước tới nay, đạt 15,6 triệu m3 tấn, nộp ngân sách trên 32.000 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế đạt gần 4.000 tỷ đồng.
Chủ trương, phương châm hành động của Chính phủ năm 2025, tăng trưởng tối thiểu 8%, Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam hoàn toàn nhất trí và cam kết ngay từ đầu năm, tập trung vào các giải pháp cụ thể.
Theo Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, tại Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, nhu cầu tiêu thụ xăng dầu trung bình từ 2020-2030 là từ 4-5%.
Theo thống kê của chúng tôi, trong 10 năm qua, GDP giai đoạn 2014-2019 tăng trưởng từ 6-7%, nhu cầu tiêu thụ xăng dầu là 7,6%. Từ 2019-2024, ảnh hưởng của COVID-19, tăng trưởng về xe điện, nhưng nhu cầu xăng dầu trong giai đoạn này cũng tăng trưởng 7,09%.
GDP tăng trưởng trung bình 10 năm vừa qua tăng 6,5%, nhu cầu xăng dầu vẫn tăng trên 7%, có nghĩa là năm nay, GDP tăng 8% thì nhu cầu xăng dầu sẽ tăng trên 8%. Nhu cầu xăng dầu tăng như vậy thì Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam cam kết sẽ đồng hành cùng Chính phủ và các bộ, ngành để góp phần vào tăng trưởng chung của cả nước là tối thiểu 8%.
Năm 2025, chúng tôi có các giải pháp hữu hiệu để thực hiện đúng cam kết của mình.
Một là tìm các giải pháp hữu hiệu để phát triển thị trường, sản phẩm của mình, phát triển hệ thống thương nhân nhượng quyền, thương nhân phân phối, đẩy mạnh hợp tác bán hàng quốc tế.
Dư địa của thị trường trong nước có giới hạn và năm 2025, chúng tôi cũng phải sang thị trường nước ngoài, như Bangladesh, Myanmar, các nước trong ASEAN, đặc biệt, chúng tôi sẽ khai thác một số sân bay quốc tế bằng các hợp tác với các môi giới cung cấp nhiên liệu hàng không quốc tế để cung cấp tại các sân bay quốc tế.
Thứ hai, đẩy mạnh đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, tự động hóa, chuyển đổi số…, đầu tư vào các kho, bể, cảng nhập xuất và hệ thống cửa hàng. Xăng dầu nội địa muốn tăng trưởng bán lẻ thì phải phát triển hệ thống cửa hàng.
Thứ ba, nâng cao hiệu quả tài chính và kiểm soát chi phí, tối ưu danh mục, hiệu quả đầu tư tài chính, kiểm soát chi phí vận hành, lãng phí trong quản lý kinh doanh. Tiết kiệm, giảm chi phí tổ chức các hội nghị; tăng cường quản lý rủi ro...
Thứ tư, triển khai đổi mới, sắp xếp bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Bước đầu, chúng tôi đã thành lập ban chỉ đạo về tiết kiệm, chống lãng phí và tinh gọn bộ máy theo tinh thần chỉ đạo của Nghị quyết 18 là bỏ các khâu trung gian và ngay trong quý I, chúng tôi đã chấm dứt hoạt động của một số tổng công ty, chi nhánh trung gian. Trong quý II, chúng tôi tiếp tục giảm một số đầu mối khác để tinh gọn bộ máy, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Thứ năm, để phát huy vai trò chủ đạo trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu hạ nguồn, trong năm 2025 còn khó khăn, chúng tôi có một số kiến nghị sau:
Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành xem xét, có cơ chế chính sách thúc đẩy các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu đẩy mạnh kinh doanh nhiên liệu sinh học và nhiên liệu tiêu chuẩn Euro5. Đề nghị Chính phủ, Bộ Tài chính sớm điều chỉnh định mức chi phí bảo quản hàng dự trữ quốc gia.
Đề nghị các bộ, ngành, địa phương quan tâm hơn nữa việc kiểm soát thị trường xăng dầu lậu, gian lận thương mại…
Thứ sáu, Chính phủ đã ban hành Nghị định 178 về cơ chế chính sách đối với cán bộ công chức, viên chức, lực lượng vũ trang trong quá trình tinh giản, sắp xếp lại bộ máy, nhưng đối với doanh nghiệp, chúng tôi chưa thấy có hướng dẫn, đề nghị Chính phủ sớm có hướng dẫn để chúng tôi có cơ sở, căn cứ để tinh gọn bộ máy trong thời gian sắp tới.
Ông Phùng Quang Hiệp, Chủ tịch HĐTV Tập đoàn Hóa chất Việt Nam (Vinachem): Tập đoàn xây dựng các chỉ số bám sát mục tiêu Chính phủ đề ra tăng trưởng 8% tạo tiền đề bền vững cho các năm tiếp theo - Ảnh: VGP/Đình Hải
Ông Phùng Quang Hiệp, Chủ tịch HĐTV Tập đoàn Hóa chất Việt Nam (Vinachem): Thực hiện theo chỉ đạo của Chính phủ, năm 2025, Tập đoàn Hoá chất xây dựng các chỉ số bám sát mục tiêu Chính phủ đề ra tăng trưởng 8% tạo tiền đề bền vững cho các năm tiếp theo. Tập đoàn Hoá chất đã xây dựng 6 nhóm giải pháp để thực hiện:
Thứ nhất, quyết liệt thực hiện Đề án cơ cấu lại và đề án phát triển 2021-2025 đã được Chính phủ phê duyệt tạo bước đệm quan trọng để 2026-2030 tăng trưởng 2 con số. Trên cơ sở đó, chúng tôi đã lập các tổ công tác đến làm việc với từng công ty để thực hiện bằng được việc tăng trưởng 8% năm nay.
Thứ hai, quyết liệt triển khai Quyết định số 1468/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt "Đề án xử lý các tồn tại, yếu kém của một số dự án, doanh nghiệp chậm tiến độ, kém hiệu quả thuộc ngành công thương".
Năm 2024, Tập đoàn đã hoàn thành trả hết nợ Bộ Tài chính nguồn Eximbank Trung Quốc cả gốc, lãi, phí quản lý 340 triệu USD khoản vay dự án Đạm Ninh Bình, trả hết nợ gốc khoản vay tại Ngân hàng Phát triển VDB cho dự án Đạm Ninh Bình.
Thứ ba, giữ vững và duy trì vai trò chủ đạo trong sản xuất công nghiệp hoá chất, tăng tích tụ tập trung nguồn lực theo chiến lược chung của Tập đoàn phát triển sản phẩm mới, phát huy tối đa trang thiết bị hiện có, đặc biệt là nhóm sản phẩm phục vụ công nghiệp bán dẫn, nghiên cứu phát triển sản phẩm cao su kỹ thuật đảm bảo chất lượng cung cấp cho đường sắt cao tốc.
Thứ tư, phát triển Tập đoàn có trình độ công nghệ quản lý hiện đại, chuyên môn hoá cao, gắn kết chặt chẽ với sản xuất kinh doanh, khoa học công nghệ, nghiên cứu, đào tạo, ứng dụng công nghệ hiện đại, kinh tế số và chuyển đổi số.
Thứ năm, tham gia chuỗi sản xuất hàng đầu tại Việt Nam và mở rộng ra thế giới. Tập đoàn xác định thị trường trong nước rất quan trọng nhưng cũng phải mở rộng xuất khẩu ra thế giới. Trong nước chúng tôi đã tăng cường ký kết với các tập đoàn lớn như Petrolimex, xăng dầu, VinGroup.
Vừa rồi tất cả sản phẩm cao su, pin ắc quy đã được VinGroup sử dụng. Các sản phẩm Tập đoàn cũng hướng tới đáp ứng yêu cầu của thế giới, đơn cử như lốp xe đã gắn chip. Hiện nay chúng tôi đang tiếp cận để bán sản phẩm cho các hãng xe nổi tiếng thế giới như Harley.
Thứ sáu, tiếp tục rà soát, sắp xếp tổ chức tái cơ cấu theo hướng tinh gọn, giảm đầu mối, khắc phục tình trạng chồng chéo chức năng theo tinh thần Nghị quyết 18.
Về kiến nghị, hiện tập đoàn có 6 nhà máy ở khu công nghiệp Biên Hoà 1 (tỉnh Đồng Nai). Theo quy định của tỉnh Đồng Nai thì đến hết năm 2025, các nhà máy này sẽ phải di dời, nhưng đến thời điểm này, chúng tôi vẫn chưa nhận được phương án chính sách di dời.
Nếu hết năm nay di dời thì Vinachem không thể triển khai được. Trong khi 6 nhà máy này đóng góp rất lớn vào kết quả kinh doanh của toàn Tập đoàn. Mong Chính phủ có ý kiến để tỉnh sớm triển khai.
Về thuế phòng vệ thương mại, chúng tôi đề xuất tiếp tục áp thuế phòng vệ thương mại cho các sản phẩm phân bón và săm lốp. Trước đây, các sản phẩm phân bón DAP, MAP áp dụng thuế phòng vệ thương mại đến tháng 8/2022 nhưng sau đó các sản phẩm nước ngoài tràn vào rất mạnh, ảnh hưởng đến sản xuất trong nước.
Đại tá Nguyễn Năng Toàn, Chủ tịch Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn, phát biểu tại Hội nghị - Ảnh: VGP/Đình Hải
Đại tá Nguyễn Năng Toàn, Chủ tịch Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn: Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn là doanh nghiệp quốc phòng, an ninh, 100% vốn nhà nước, do Bộ Quốc phòng làm đại diện chủ sở hữu và giao cho Quân chủng Hải quân trực tiếp quản lý. Hiện nay, chúng tôi hoạt động kinh doanh trên ba lĩnh vực chính: Khai thác cảng biển, dịch vụ logistics và các ngành kinh tế biển.
Trong suốt thời gian qua, chúng tôi luôn bám sát phương châm, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, đặc biệt là trong các đợt phát lệnh đặt hàng trong năm 2024 tại các cảng trọng điểm như Cát Lái, Cái Mép – Thị Vải và Vũng Tàu.
Toàn hệ thống của Tân Tạo Sài Gòn đã nỗ lực vượt bậc, phát huy tốt vai trò trong lĩnh vực kinh tế biển, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ trọng tâm, với 4 kết quả nổi bật tạo tiền đề vững chắc để triển khai kế hoạch năm 2025.
Thứ nhất, về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, chúng tôi đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ thường xuyên, đột xuất trên giao, trong đó đã tham gia sâu rộng hơn vào các nhiệm vụ trên biển, đảo.
Thứ hai, trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, Tân Cảng Sài Gòn tiếp tục giữ vững vị thế số một của ngành cảng biển Việt Nam. Đặc biệt, năm 2024, chúng tôi duy trì sản lượng thông quan của Tân Cảng chiếm 55% thị phần toàn quốc, với tổng khối lượng hàng hóa đạt gần 150 triệu tấn, tăng 10% so với năm 2023; doanh thu toàn hệ thống đạt gần 32.000 tỷ đồng, tăng 16%, trong khi lợi nhuận đạt 7.200 tỷ đồng, tăng 35% so với năm trước.
Có thể nói, năm 2024 là một năm ghi nhận sự tăng trưởng mạnh mẽ về lợi nhuận của Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn. Lợi nhuận tăng cao, trong khi số tiền nộp ngân sách đạt trên 3.000 tỷ đồng, tăng 38% so với cùng kỳ năm trước. Đồng thời, chúng tôi đảm bảo tốt việc làm, thu nhập và đời sống cho gần 7.000 cán bộ, công nhân viên.
Về đầu tư phát triển hạ tầng cảng biển, chúng tôi đã chủ động, tích cực mở rộng hệ thống cảng thủy nội địa theo đúng định hướng của Chính phủ. Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại buổi làm việc với Tổng Công ty Tân Cảng về việc mở rộng hệ thống cảng tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, Tân Cảng đã mở rộng cảng Thốt Nốt (Cần Thơ), Nhơn Trạch (Đồng Nai) và Giao Long (Bến Tre).
Bên cạnh đó, chúng tôi đầu tư thêm phương tiện vận tải đường thủy và phối hợp chặt chẽ với Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam để nâng cao năng lực vận tải đường thủy, góp phần giảm tải cho hệ thống giao thông đường bộ và tối ưu hóa chi phí logistics.
Thành tựu nổi bật thứ tư là Tân Cảng đã và đang tập trung đẩy mạnh các dự án cảng xanh, cảng thông minh, đồng thời ứng dụng mạnh mẽ chuyển đổi số trong khai thác nhằm tối ưu hóa công tác vận hành và nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.
Chúng tôi đã đưa vào sử dụng các phương tiện vận tải sử dụng năng lượng sạch, lắp đặt hệ thống năng lượng mặt trời tại các cơ sở kho bãi, và từng bước triển khai hệ thống cung cấp điện bờ cho các tàu biển quốc tế khi cập cảng.
Những kết quả này là minh chứng cho cam kết của Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn đối với Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ trong việc giảm chi phí logistics, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Đồng thời, chúng tôi không ngừng đóng góp vào sự phát triển bền vững của nền kinh tế, xây dựng và phát triển nguồn lực quốc gia, cũng như góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Bước vào năm 2025 –năm mang tính chất bản lề với những mục tiêu lớn mà Chính phủ đã đặt ra, Tân Cảng xác định đây là thời điểm bứt phá, không chỉ giữ vững vị thế mà còn tạo ra những giá trị bền vững, đóng góp vào mục tiêu tăng trưởng hai con số và phát triển nhanh, bền vững.
Với vai trò là mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng hàng hóa quốc gia, hệ thống cảng của chúng tôi được ví như "tấm gương phản chiếu" sức khỏe nền kinh tế. Trong năm 2025, chúng tôi đặt mục tiêu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh, với các chỉ tiêu cơ bản tăng trưởng trên 8% so với năm trước. Để hiện thực hóa mục tiêu này, chúng tôi tập trung vào ba nhóm giải pháp trọng tâm:
Một là tăng tốc đầu tư, mở rộng quy mô kinh doanh sang các lĩnh vực mới. Bên cạnh ba lĩnh vực kinh doanh truyền thống, chúng tôi đã và đang mở rộng đầu tư vào khu công nghiệp, du lịch biển đảo và năng lượng tái tạo, xây dựng hệ sinh thái kết nối liền mạch giữa sản xuất, logistics và tối ưu hóa chi phí, từ đó nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Thứ hai, trong lĩnh vực đầu tư, chúng tôi đã tập trung đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án lớn, bám sát kế hoạch đề ra. Cụ thể, chúng tôi đang thực hiện các dự án bến số 7, số 8 tại Lạch Huyện, Hải Phòng và dự án nâng cấp, hiện đại hóa cảng Cát Lái, TP. Hồ Chí Minh, cùng với các dự án khác theo chỉ đạo của Bộ Quốc phòng và Chính phủ.
Thứ ba, để tận dụng tối đa hạ tầng sẵn có, chúng tôi đã lên kế hoạch đầu tư nâng cao năng lực xếp dỡ và cải thiện hệ thống logistics tại các cảng biển, nhằm đón các tàu có trọng tải lớn hơn.
Để thực hiện thành công kế hoạch sản xuất, kinh doanh năm 2025 và các năm tiếp theo, góp phần hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng hai con số, chúng tôi rất mong nhận được sự quan tâm, tạo điều kiện từ Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương.
Nhân dịp này, Tân cảng Sài Gòn xin báo cáo, đề xuất một số kiến nghị tới Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững trong giai đoạn tới.
Thứ nhất, tương tự như các tập đoàn đã phát biểu, chúng tôi đề nghị Bộ Tài chính sớm tổng hợp và trình Quốc hội ban hành Luật quản lý và đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp thay thế Luật 69. Những nội dung này, chúng tôi đã trực tiếp đóng góp ý kiến tại nhiều hội nghị chuyên đề.
Thứ hai, chúng tôi kiến nghị Chính phủ tiếp tục duy trì cơ chế tài chính đặc thù dành cho các doanh nghiệp phục vụ quốc phòng, an ninh, tạo điều kiện để Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn có thể tăng vốn điều lệ, đáp ứng nhu cầu đầu tư trong giai đoạn 2026–2030.
Thứ ba, chúng tôi mong muốn Chính phủ tiếp tục quan tâm, tạo điều kiện để Tân Cảng Sài Gòn được tiếp nhận, hợp tác đầu tư và khai thác các cảng nước sâu có vị trí chiến lược tại Bà Rịa – Vũng Tàu, Quảng Ninh và TP. Hồ Chí Minh, nhằm tăng cường vai trò dẫn dắt của các doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam, góp phần bảo đảm phát triển kinh tế gắn với củng cố quốc phòng, an ninh tại các địa bàn chiến lược.
Bốn là công tác quy hoạch và đầu tư hạ tầng kết nối, chúng tôi đề nghị Chính phủ và các địa phương đẩy nhanh đầu tư, nâng cấp các tuyến đường kết nối giữa hệ thống cảng biển và các trung tâm logistics lớn, tạo sự đồng bộ trong chuỗi cung ứng. Đồng thời, cần đơn giản hóa thủ tục liên quan đến nạo vét, duy tu luồng hàng hải, tạo điều kiện thuận lợi cho các cảng biển tiếp nhận tàu có tải trọng lớn hơn.
Thứ năm, chúng tôi đề nghị Bộ Tài chính và Tổng cục Hải quan xây dựng cơ chế thúc đẩy phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị liên quan để giải quyết hiệu quả các vấn đề tồn đọng, đặc biệt là cơ chế chính sách xử lý hàng tồn tại cảng biển. Hiện nay, lượng hàng tồn kho tại các cảng rất lớn, gây ảnh hưởng đến hiệu suất khai thác cảng và làm gia tăng chi phí logistics.
Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn, với cội nguồn là một doanh nghiệp quân đội, luôn thấm nhuần sứ mệnh giữ biển và làm giàu từ biển. Nhìn về phía trước, với sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, sự đồng hành của các bộ, ban, ngành và các địa phương, cùng với bản lĩnh và khát vọng vươn lên, chúng tôi tin tưởng rằng Tân Cảng Sài Gòn sẽ tiếp tục tiến xa hơn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị, kinh tế, đặc biệt là đóng góp tích cực vào mục tiêu tăng trưởng 8% của cả nước trong năm 2025. Đồng thời, chúng tôi sẽ cùng các doanh nghiệp ngành cảng biển hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng hai con số trong những năm tiếp theo, đưa Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Thủ tướng Phạm Minh Chính: Nhà nước phải kiến tạo, doanh nghiệp phải tiên phong, nhân dân là nền tảng và sức mạnh; phải phải tạo khí thế cho toàn dân tộc, huy động người dân vào cuộc.
Phát biểu định hướng phiên thảo luận thứ hai, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, để cả nước tăng trưởng 2 con số, mọi người dân, doanh nghiệp, mọi cấp, mọi ngành đều phải nỗ lực tăng trưởng 2 con số.
Thủ tướng cho biết, hiện đất nước ta đang triển khai các chương trình, dự án rất lớn như phải hoàn thành 3.000 km cao tốc trong năm 2025; xây dựng sân bay, bến cảng, đường sắt tốc độ cao Bắc Nam, đường sắt kết nối Trung Quốc, đường sắt đô thị…
Về xã hội, có hai chương trình lớn là chương trình xây dựng nhà ở xã hội và chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát trên cả nước, với mục tiêu làm sao để chính sách cho người trẻ, người khó khăn, thu nhập thấp, công nhân lao động có chỗ ở. Chúng ta phát triển nhanh nhưng phải bền vững, bao trùm, không để ai bị bỏ lại phía sau.
Thủ tướng khẳng định, tất cả đều phải nỗ lực, cố gắng, nhưng nỗ lực, cố gắng phải có phương pháp, cách làm phù hợp, khoa học, hiệu quả. Do đó, vấn đề đặt ra là làm như thế nào, doanh nghiệp làm gì, người dân làm gì, Nhà nước làm gì, Trung ương làm gì, địa phương làm gì để đạt mục tiêu 2 con số?
Thủ tướng: Nếu cần cơ chế, chính sách để làm nhanh hơn, hiệu quả hơn thì doanh nghiệp nhà nước phải đề xuất. Sau hội nghị này sẽ có chỉ tiêu giao từng doanh nghiệp.
Thủ tướng nhấn mạnh Nhà nước phải kiến tạo, doanh nghiệp phải tiên phong, nhân dân là nền tảng và sức mạnh; phải phải tạo khí thế cho toàn dân tộc, huy động người dân vào cuộc.
Để huy động người dân vào cuộc thì phải tạo việc làm sinh kế cho người dân. Theo Thủ tướng, làm đường sắt, xây sân bay, bến cảng thì sẽ tạo không gian phát triển mới, kéo theo hàng loạt ngành nghề, hàng loạt dịch vụ phát triển.
Thủ tướng cho biết vừa qua, Thường trực Chính phủ đã làm việc với các doanh nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp đã đăng ký thực hiện làm nhiều công việc lớn của đất nước.
Vậy với các doanh nghiệp nhà nước, được Nhà nước giao vốn thì phải xoay xở thế nào để góp phần tăng trưởng 2 con số. Nếu cần cơ chế, chính sách gì để làm nhanh hơn, hiệu quả hơn thì phải đề xuất. Thủ tướng cho biết, sau hội nghị này sẽ có chỉ tiêu giao từng doanh nghiệp.
Đại diện lãnh đạo Tổng Công ty Đầu tư phát triển Hạ tầng đô thị (UDIC) thông tin về kế hoạch kinh doanh của đơn vị năm 2025 - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Lãnh đạo Tổng Công ty Đầu tư phát triển Hạ tầng đô thị (UDIC): Công ty Đầu tư phát triển Hạ tầng đô thị UDIC là doanh nghiệp nhà nước 100% trực thuộc UBND thành phố Hà Nội với ngành nghề chính là thành viên đầu tư kinh doanh bất động sản và thi công xây lắp.
Trong những năm qua, UDIC luôn là một trong những doanh nghiệp hàng đầu của Thành phố trong sản xuất kinh doanh với các con số tăng trưởng dao động từ 7-10%. Với tinh thần, kết quả của năm 2024 và thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, của thành phố Hà Nội về xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2025 của Tổng công ty tăng trưởng tối thiểu từ 8% trở lên, Tổng công ty đã xây dựng kế hoạch dựa trên kết quả đạt được năm 2024.
Năm 2024, tất cả các chỉ tiêu về doanh thu, sản lượng, lợi nhuận và thu nhập cho người lao động, UDIC cũng đều đạt và vượt so với kế hoạch đã được giao, với doanh thu cụ thể là 7.010 tỷ đồng và lợi nhuận là 1.215 tỷ đồng.
Đối với lĩnh vực phát triển nhà ở đô thị thành phố Hà Nội nói riêng, cho các tỉnh, thành phố khác nói chung và đề án phát triển nhà ở xã hội mà Thủ tướng ban hành, trong những năm qua, UDIC đã và đang là chủ đầu tư và tổng thầu thực hiện các dự án này.
Cuối năm 2024 (ngày 5/12/2024), Tổng công ty đã khởi công thành công dự án nhà ở xã hội tại khu đô thị Hạ Đình, đóng góp vào chương trình, đề án thực hiện nhà ở xã hội của Chính phủ. Tiến độ được lãnh đạo Tổng công ty cam kết rút ngắn từ 36 tháng xuống còn 24 tháng để sớm đưa dự án này vào hoạt động.
Từ kết quả sản xuất 2024, Tổng công ty đã xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2025 với tăng trưởng trên 9%; doanh thu đạt 8000 tỷ đồng; sản phẩm có mức lợi nhuận là 1.350 tỷ đồng và đặc biệt chỉ tiêu thu nhập cho người lao động tăng trưởng trên 10%.
Để thực hiện được các nhiệm vụ trên và đạt được kết quả cao hơn nữa, Ban lãnh đạo Tổng công ty đã đưa ra một số giải pháp cụ thể như sau:
Thứ nhất, lãnh đạo Tổng công ty sẽ tập trung triển khai, thực hiện đề án tái cơ cấu doanh nghiệp đã được UBND Thành phố phê duyệt; thực hiện từng bước theo đúng quy định.
Thứ hai, đẩy mạnh các lĩnh vực, trọng tâm là các ngành mũi nhọn như là đầu tư kinh doanh bất động sản, trong đó có đầu tư các dự án về nhà ở xã hội; tập trung giải quyết các vướng mắc, các dự án để tránh lãng phí nguồn đất và sớm đưa các dự án vào hoạt động.
Thứ ba, triển khai đầu tư, đổi mới khoa học công nghệ; khoa học kỹ thuật và chuyển đổi số trong triển khai các công trình thi công xây lắp để tăng năng suất lao động và tham gia nhận thầu các công trình có vốn ngân sách của Nhà nước.
Thứ tư, tập trung triển khai, thực hiện và sớm hình thành các dự án, các công trình trọng điểm của Tổng công ty, tạo động lực đẩy mạnh thực hiện các mục tiêu về năng suất lao động, năng suất tổng hợp và tăng cường mối quan hệ Công ty mẹ với các công ty thành viên để tạo điều kiện sử dụng các dịch vụ của nhau, cùng nhau phát triển, góp phần vào sự phát triển chung của Tổng công ty.
Để thực hiện được các giải pháp trên, Tổng công ty có một số kiến nghị với thành phố Hà Nội cũng như với Chính phủ như sau:
Thứ nhất là kiến nghị về thể chế, chính sách: Kiến nghị sớm ban hành Luật Quản lý, sở hữu vốn nhà nước đã sửa đổi, trong đó, tăng cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các doanh nghiệp; sửa đổi các Nghị định 91/2015/NĐ-CP, Nghị định số 32/2018/NĐ-CP và một số nghị định ảnh hưởng đến phát triển của doanh nghiệp nhà nước; tiếp tục bổ sung, sửa đổi các quy định về tiền lương đối với người lao động, người quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ để sát với thị trường hơn. Có như vậy doanh nghiệp nhà nước mới tuyển được nguồn nhân lực thực sự có chất lượng, đảm bảo cho sự phát triển trong thời gian tới.
Thứ hai là kiến nghị về triển khai thực hiện:
1- Phân công và giao quyền cho UBND thành phố Hà Nội được quyết định tăng vốn điều lệ thuộc thẩm quyền của UBND Thành phố để sớm hỗ trợ kịp thời cho các doanh nghiệp sẵn sàng về nguồn vốn để kịp thời triển khai thực hiện các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh trong giai đoạn 2025 và những năm tiếp theo;
2 - Để đảm bảo đẩy nhanh đề án xây dựng nhà ở xã hội, UDIC đề xuất với Chính phủ xem xét việc chỉ định cho các doanh nghiệp nhà nước có đủ năng lực về tài chính, về kinh nghiệm thực hiện các dự án nhà ở xã hội vừa đảm bảo rút ngắn được các thủ tục đầu tư, đẩy nhanh được tiến độ thực hiện dự án, cũng như tạo được nguồn lực, nguồn công ăn việc làm cho doanh nghiệp.
Đại diện lãnh đạo UBND thành phố Hà Nội thông tin về việc phát triển nhà ở xã hội trên địa bàn - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Tại Hội nghị, đại diện UBND thành phố Hà Nội cũng đã có ý kiến với kiến nghị và đề xuất của UDIC: Hà Nội có cơ chế là những khu vực quy hoạch nhà ở xã hội thì giao cho Tổng công ty UDIC xây bằng nguồn vốn Tổng công ty.
Sau khi hoàn thành phần móng thì bán cho các hộ gia đình theo danh sách Hà Nội cung cấp trên cơ sở đúng tiêu chí nhà ở xã hội của Hà Nội căn cứ vào thu nhập người dân; người dân không có nhà ở trên địa bàn Hà Nội hoặc có nhà nhưng bị dột nát; ưu tiên các khu công nghiệp tập trung cho đối tượng công nhân và tiến tới hộ gia đình nghèo; không có quy định về hộ khẩu.
Hà Nội đang triển khai 3 khu dự án tập trung ở huyện Đông Anh. Quy hoạch khu lớn nhất gần 200 ha theo mô hình tiến tới tương tự nhà ở thương mại nhưng với giá thành thấp. Hà Nội dự kiến các căn nhà ở theo mô hình giá dưới 18 triệu/m2. Khảo sát trên thị trường thì đa phần các hộ gia đình đáp ứng được.
UBND thành phố Hà Nội đang trình HĐND Thành phố cơ chế sử dụng vốn nguồn lực phát triển để cho vay và hỗ trợ vốn các tổng công ty và các tập đoàn xây dựng. Trong đó, dự kiến cho vay các đối tượng nhà ở xã hội vay có thời hạn và sau có thể trừ vào thu nhập của người mua như tiền lương… Cơ chế này đang trình theo Luật Thủ đô.
Với mục tiêu như vậy, sắp tới ở khu vực Kim Trung, huyện Đông Anh sẽ khởi công 1 dự án gồm 14 tòa nhà với trên 1.000 căn hộ. Hà Nội cam kết tất cả dự án xã hội sẽ hoàn thành trong 2 năm. Như vậy, tầm quý IV/ 2026 dự án trên sẽ hoàn thành. Trên cơ sở chỉ đạo của Thủ tướng về đề án xây dựng 1 triệu căn nhà ở xã hội, Hà Nội đã tham gia hưởng ứng tích cực đề án này.
Thủ tướng nhấn mạnh: Nhà ở xã hội không có nghĩa là làm ở những chỗ đất "đầu thừa đuôi thẹo", những nơi "khỉ ho cò gáy", không làm được nhà ở thương mại thì làm nhà ở xã hội - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Sau phát biểu của UDIC và đại diện UBND thành phố Hà Nội, Thủ tướng Phạm Minh Chính dành nhiều thời gian đề cập yêu cầu đột phá phát triển nhà ở xã hội và nhấn mạnh, Hà Nội và các địa phương phải giao nhiệm vụ cho các doanh nghiệp trong việc này. Thủ tướng nhắc tới thông tin trên báo chí về dự án có hơn 100 căn hộ nhà ở xã hội mà hơn một nghìn người bốc thăm.
Về thông tin Hà Nội đang triển khai xây dựng 3 khu nhà ở xã hội tập trung tại Đông Anh, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh điểm cần lưu ý, nhà ở xã hội không có nghĩa là làm ở những chỗ đất "đầu thừa đuôi thẹo", những nơi "khỉ ho cò gáy", không làm được nhà ở thương mại thì làm nhà ở xã hội.
Thủ tướng lưu ý, với Hà Nội, nhà ở xã hội ở không chỉ tập trung ở Đông Anh là nơi còn nhiều đất, còn Nam Từ Liêm không còn nhiều đất thì không làm nhà ở xã hội ở đấy nữa. Người ta ở Đan Phượng mà phải về Đông Anh thì không được, phải có khu nhà ở xã hội ở Đan Phượng, Thủ tướng phát biểu.
Phải ưu tiên nhà ở xã hội trước rồi mới đến nhà ở thương mại, chính sách xã hội của chúng ta là như thế, phải xác định rất rõ điều này, Thủ tướng nhấn mạnh.
Cùng với đó, nhà ở xã hội phải đầy đủ điều kiện hạ tầng (giao thông, y tế, giáo dục, thể thao, xã hội, môi trường…) như nhà ở thương mại, nhưng chỉ khác là nhà nước có các chính sách hỗ trợ như giao đất không thu tiền đất để ưu tiên cho người thu nhập thấp, người trẻ chưa có nhà sớm an cư lạc nghiệp. Cùng với đó, nhà ở xã hội phải có hình thức mua và thuê mua, chứ nhà ở xã hội chỉ mua thì không ổn.
Yêu cầu Bộ Xây dựng phải tiếp tục đề xuất, hoàn thiện các chính sách nhà ở xã hội, Thủ tướng nêu rõ, phải tổ chức hội nghị để bàn cho ra giải pháp thúc đẩy nhà ở xã hội.
"Tất cả trong tay chúng ta, chúng ta có đất đai, cơ chế, chính sách… mà chúng ta không xoay chuyển được tình thế thì chúng ta trông chờ vào ai, nếu chúng ta không làm thì ai làm", Thủ tướng đặt vấn đề với yêu cầu quản lý nhà nước phải kiến tạo để doanh nghiệp thực hiện,
Ông Phan Đức Tú, Chủ tịch HĐQT Ngân hàng BIDV báo cáo về việc thực hiện vai trò của các NHTM trong việc góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh và bền vững - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Ông Phan Đức Tú, Chủ tịch HĐQT Ngân hàng BIDV báo cáo về việc thực hiện vai trò của các NHTM với tư cách là DNNN trong việc góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh và bền vững.
Các NHTM Nhà nước nhận thức sâu sắc trách nhiệm của DNNN trước thời cơ yêu cầu của đất nước trong việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia bảo đảm các cân đối lớn, kiểm soát lạm phát, ổn định thị trường tiền tệ, góp phần tăng trưởng kinh tế.
Ngay từ đầu năm, chúng tôi đã ban hành các nghị quyết, quyết định, chương trình hành động để kịp thời thực hiện chỉ đạo của Chính phủ theo Nghị quyết 01 và chỉ đạo của NHNN. Thứ nhất, hệ thống các NHTM đã rất khẩn trương cung ứng vốn o nền kinh tế và cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế.
Tổng tài sản của 5 NHTM Nhà nước hiện nay, bao gồm Agribank, Vietcombank, Vietinbank, MB, BIDV, là 10.590.000 tỷ đồng, chiếm 46,5% tổng giá trị tài sản của hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam.
Dư nợ tín dụng 5 ngân hàng thương mại là 7.726.000 tỷ đồng, chiếm 49,5% tổng dư nợ của nền kinh tế. Nếu năm nay, với chỉ đạo của Chính phủ, NHNN, tăng 15-16%, chúng tôi sẽ đưa hàng triệu tỷ đồng ra để phục vụ cho nền kinh tế. Riêng dư nợ tăng thêm khoảng 1.158.000-1.236.000 tỷ đồng.
Trong đó, riêng hệ thống BIDV sẽ gia tăng được 328.000 tỷ đồng, đạt dư nợ cuối năm là 2.400.000 tỷ đồng.
Vốn tín dụng của các NHTM Nhà nước cũng chủ yếu tập trung theo chỉ đạo của Chính phủ, các chương trình tín dụng theo chỉ đạo, các động lực tăng trưởng kinh tế, hỗ trợ các DN tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, như công nghiệp chế biến, chế tạo, xuất khẩu, nông nghiệp công nghệ cao, khu công nghiệp, chế biến thực phẩm, dược phẩm, đặc biệt là các dự án nền tảng cho hạ tầng giao thông, logistics, viễn thông, năng lượng, kinh tế xanh…Chúng tôi cũng đã triển khai các chương trình cho vay kích cầu tiêu dùng, cá nhân… đây là một trong những đảm bảo khả năng thanh toán cho nền kinh tế cũng như kích cầu thông qua tăng tổng cầu của nền kinh tế.
Thứ hai là các NHTM Nhà nước cũng như BIDV tiếp tục cải tiến quy trình, tăng cường ứng dụng công nghệ, phát triển ngân hàng số, triển khai cho vay bằng phương tiện điện tử… Theo tính toán và nghiên cứu của chúng tôi, hiện nay công nghệ của các NHTM Nhà nước không thua kém bất cứ ngân hàng nước ngoài nào.
Thứ ba, các NHTM nhà nước đều nghiên cứu áp dụng thông lệ quản trị tốt, được các đối tác, tổ chức xếp hạng tín nhiệm đánh giá rất cao.
Cùng với 3 trụ cột thể hiện năng lực vượt trội của các NHTM Nhà nước: Chi phối về quy mô, dẫn đầu về công nghệ và tiên tiến về quản trị, các NHTM Nhà nước đang thực hiện tốt vai trò chủ lực, chủ đạo dẫn dắt thị trường theo yêu cầu của Đảng, Chính phủ.
Trên thực tế, 5 NHTM đã triển khai thực hiện tốt chỉ đạo của Chính phủ trong: Thứ nhất, là nòng cốt trong thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, tham gia thị trường ngoại hối, bình ổn tỉ giá, giá vàng và bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế.
Thứ hai, cung ứng vốn cho các chương trình tín dụng, các dự án nền tảng quốc gia.
Thứ ba, cung cấp các sản phẩm dịch vụ tài chính ngân hàng cho nền kinh tế và tạo điều kiện cho các khách hàng tiếp cận vốn ngân hàng ở tất cả các thành phần khắp đất nước.
Thứ tư, chủ động, nòng cốt kéo giảm lãi suất và duy trì lãi suất thấp.
Năm NHTM Nhà nước lúc nào cũng duy trì lãi suất thấp nhất thị trường.
NHTM Nhà nước cũng thực hiện tốt công tác an sinh xã hội, trách nhiệm với cộng đồng. Theo gợi y của Thủ tướng, hiện nay, chúng tôi là một trong những đơn vị là nòng cốt trong việc tham gia các chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát. Thứ hai là thực hiện tốt 2 chương trình tín dụng về nhà ở xã hội.
Chúng tôi cũng đang xây dựng chương trình tín dụng cho người trẻ theo gợi ý của Thủ tướng.
Một điểm nữa, chúng tôi đã phối hợp rất chặt chẽ với các tập đoàn, tổng công ty nhà nước trong triển khai nhiệm vụ kinh doanh, phát triển các dự án lớn, nền tảng của đất nước và thực hiện vai trò của DN trong nền kinh tế.
Về một số kiến nghị, đề xuất:
Thứ nhất, Chính phủ và các bộ, ngành cần có chiến lược mạnh mẽ thu hút các nguồn vốn phục vụ nền kinh tế, đặc biệt là nguồn vốn trung hạn thông qua thu hút đầu tư trực tiếp, gián tiếp nước ngoài. Phát triển ổn định và nâng cấp thị trường chứng khoán, trái phiếu, cổ phiếu và thông qua thu hút các nguồn lực của các nhà đầu tư…
Thứ hai là Chính phủ chỉ đạo sớm hoàn thiện khung pháp lý, nhất là luật hóa các nội dung phù hợp với thực tiến, đã được thực tiễn kiểm chứng trong Nghị quyết 42 của Quốc hội về xử lý nợ xấu, quyết liệt đẩy nhanh cơ cấu lại các tổ chức tín dụng yếu kém, sàng lọc, lành mạnh hóa hệ thống và giảm cạnh tranh không lành mạnh. Những điều này sẽ tạo điều kiện cho chúng ta kéo giảm lãi suất và có thể tăng thêm nguồn vốn luu chuyển trong nền kinh tế.
Chính phủ cũng sớm ban hành cơ chế thử nghiệm sandbox cho tất cả các mô hình kinh doanh mới trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm.
Chúng tôi cũng đề nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành sớm hoàn thiện trung tâm dữ liệu quốc gia, luật hóa các vấn đề liên quan tới dữ liệu, bảo mật, quản trị dữ liệu, tăng cường chia sẻ dữ liệu giữa cơ quan chức năng với DN, người dân vì dữ liệu thông tin là tài sản rât quý, vừa là cơ sở để chúng ta đưa ra quyết định chính sách, vừa là cơ sở để chúng ta giám sát. Cho phép các DN, các tổ chức tín dụng kết nối với cơ sở dữ liệu quốc gia với chi phí hợp lý.
Cuối cùng, chúng tôi đề nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành tiếp tục ổn định chính sách, kiên định và thực hiện nghiêm các cam kết mà Nhà nước với các nhà đầu tư, DN, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước bỏ vốn đầu tư sản xuất kinh doanh, xây dựng kết cấu hạ tầng, đặc biệt là các dự án đầu tư theo phương thức hợp tác đầu tư công-tư.
Ông Phạm Toàn Vượng, Tổng Giám đốc Agribank, cam kết giữ nguyên mặt bằng lãi suất từ 2024 và tiếp tục giảm lãi suất cho vay trong năm 2025 - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Ông Phạm Toàn Vượng, Tổng Giám đốc Agribank: Năm nay chúng tôi quyết tâm tăng trưởng 2 con số, chúng tôi cũng cam kết giữ nguyên mặt bằng lãi suất từ 2024 và tiếp tục giảm lãi suất cho vay.
Về cho vay tín dụng, năm nay Agribank xúc tiến sửa Nghị định 55/2015/NĐ-CP về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Đây là giải pháp rất lớn; sửa được Nghị định này sẽ có gần 1 triệu tỷ để có thể cung cấp cho nền kinh tế.
Trong năm 2024, Agribank cũng đứng đầu cho vay nhà ở xã hội. Đối với chương trình cho vay nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ theo Nghị quyết 33 của Chính phủ, Agribank đã đăng ký tham gia chương trình với quy mô tín dụng là 30.000 tỷ đồng và triển khai trong vòng 10 năm.
Đến nay, Agribank đã cấp tín dụng cho 13 chủ đầu tư và gần 300 khách hàng cá nhân mua nhà của các dự án với tổng mức tín dụng đã cấp gần 4.000 tỷ đồng và dư nợ đạt trên 1.000 tỷ đồng. Hiện nay, Agribank đang tiếp cận và xem xét cấp tín dụng đối với 5 dự án, tổng mức cấp tín dụng dự kiến gần 3.000 tỷ đồng.
Tuy quy mô vốn đã tăng lên nhưng trên thực tế công tác phát triển nhà ở xã hội đã và đang gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc. Nguyên nhân xuất phát từ các vướng mắc pháp lý, thủ tục hành chính phức tạp... khiến không ít dự án bị đình trệ hoặc chậm tiến độ, ảnh hưởng lớn đến mục tiêu xây dựng nhà ở cho người dân thu nhập thấp.
Cuối năm 2024 rất nhiều dự án được phê duyệt bổ sung nhưng phía nhà đầu tư vẫn chưa mạnh dạn đầu tư, nhiều dự án triển khai mặc dù chúng tôi cam kết cho vay nhưng cũng chưa nhận nợ.
Về phía người mua nhà, Agribank cố gắng giải quyết tối đa cho người mua nhà trong khả năng có thể, lãi suất thấp nhất và thời hạn cho vay dài nhất. Tuy nhiên, cũng không thể đáp ứng được hết nhu cầu và cần rạch ròi ra NHTM đáp ứng gì còn các chính sách khác hỗ trợ gì.
Với Đề án "Đầu tư xây dựng ít nhất 1 triệu căn hộ nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp giai đoạn 2021-2030", Agribank đã tích cực tham gia xây dựng chương trình tín dụng cho nhà ở xã hội với cam kết phân bổ 30.000 tỷ đồng để hỗ trợ chủ đầu tư và người mua nhà tiếp cận nguồn vốn ưu đãi. Đến nay, Agribank là ngân hàng thương mại dẫn đầu về triển khai cho vay nhưng cũng chưa giải ngân được.
Về kiến nghị, ngoài các giải pháp liên quan trực tiếp đến ngành ngân hàng, là 1 DNNN, chúng tôi rất vướng trong bổ sung các điều kiện về trang bị cơ sở vật chất, tài sản để hoạt động, hiện tại thủ tục đầu tư rất phức tạp, không tháo gỡ được. Rất mong Chính phủ có cơ chế rút ngắn và tạo điều kiện để chúng tôi bổ sung cơ sở vật chất, làm việc.
Để tăng cường năng lực cạnh tranh, chúng tôi rất mong các cơ quan đơn vị làm việc minh bạch, đúng thực chất trong quản lý nhà nước, kiểm toán đưa ra số liệu chính xác liên quan đến doanh nghiệp để Ngân hàng để có thể giảm thời gian thẩm định cho vay.
Cuối cùng, những dự án lớn, trọng điểm quốc gia, Agribank sẵn sàng tham gia và đề nghị có cơ chế đặc thù để giảm thời gian thẩm định hồ sơ và có cơ chế phát hành trái phiếu đặc thù (không dùng đến trái phiếu chính phủ nữa) thì hệ thống ngân hàng thương mại sẽ tham gia được với số vốn rất lớn.
Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu kết luận Hội nghị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Phát biểu kết luận, Thủ tướng Phạm Minh Chính giao Văn phòng Chính phủ phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư (từ 1/3 là Bộ Tài chính) để chuẩn bị và trình ban hành sản phẩm của Hội nghị dưới hình thức một dự thảo Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ.
Về các kiến nghị, đề xuất, Thủ tướng giao Văn phòng Chính phủ tổng hợp, các Bộ ngành, địa phương khẩn trương xử lý ngay với tinh thần 5 rõ: rõ người, rõ việc, rõ thời gian, rõ trách nhiệm, rõ kết quả; ai không làm phải xử lý, phải đứng ra một bên cho người khác làm.
Thủ tướng nhấn mạnh, bối cảnh tình hình diễn biến rất nhanh, nên tư duy, phương pháp luận, cách tiếp cận của các chủ thể, trong đó có doanh nghiệp nhà nước phải thay đổi, nhanh hơn, kịp thời hơn, linh hoạt, hiệu quả hơn.
Về thực trạng doanh nghiệp Nhà nước, Thủ tướng cho rằng khu vực này nắm giữ tài sản gần 4 triệu tỷ đồng, sở hữu nguồn vốn chiếm 20,5% khu vực doanh nghiệp, tạo ra lợi nhuận trước thuế chiếm 23,9%, đạt 348,3 nghìn tỷ đồng, nộp ngân sách nhà nước gần 366 nghìn tỷ đồng. Tuy nhiên, đóng góp của các doanh nghiệp không đồng đều, tập trung vào một số doanh nghiệp lớn như Petrovietnam, Viettel… nhiều doanh nghiệp chưa có những số liệu đáng tự hào. Như vậy, sở hữu nguồn vốn lớn nhưng sử dụng chưa hiệu quả, chưa được như mong muốn và chưa thúc đẩy mạnh mẽ tăng trưởng của đất nước.
Về nhiệm vụ, sứ mệnh của doanh nghiệp nhà nước, các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước đã có, Thủ tướng mong muốn các doanh nghiệp nhà nước góp phần thúc đẩy mạnh mẽ hơn để nền kinh tế phát triển nhanh nhưng phải bền vững, đưa đất nước cất cánh trong giai đoạn mới, đạt 2 mục tiêu 100 năm (tới năm 2030 kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng và tới năm 2045 kỷ niệm 100 năm thành lập nước).
Thủ tướng đề nghị các doanh nghiệp phải góp phần đề xuất các cơ chế, chính sách mang tính "đòn bẩy, điểm tựa" để phát huy tối đa nguồn lực, nhân nguồn lực lên, phát triển bứt phá - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Về nhận thức, Thủ tướng chỉ rõ phải thay đổi tư duy, cách làm vì nguồn lực bắt nguồn từ tư duy, động lực bắt nguồn từ sự đổi mới; phải bám sát thực tiễn, tôn trọng thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, lấy thực tiễn làm thước đo; suy nghĩ để huy động sức dân, người dân cùng vào cuộc, vì nhân dân là trung tâm, chủ thể của sự phát triển, sức mạnh bắt nguồn từ nhân dân, "đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân".
Về công việc cụ thể, Thủ tướng đề nghị các doanh nghiệp phải góp phần rà soát, sửa đổi, bổ sung thể chế thông thoáng; nghiên cứu, đề xuất các cơ chế, chính sách mang tính "đòn bẩy, điểm tựa" để phát huy tối đa nguồn lực, để nguồn lực nhân đôi, nhân ba lên, để phát triển bứt phá, không ì ạch.
Cùng với đó, phải đa dạng hóa thị trường, sản phẩm, chuỗi cung ứng và tham gia vào chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng toàn cầu với các cơ chế ổn định. Thủ tướng lấy ví dụ, cần thúc đẩy đàm phán, ký kết các hiệp định Chính phủ về thương mại gạo với các nước để ổn định đầu ra và đầu vào.
Thủ tướng cũng đề nghị các doanh nghiệp tích cực, chủ động nghiên cứu, chuyển giao công nghệ mới để tăng năng suất lao động, giảm thâm dụng tài nguyên, tăng hàm lượng trí tuệ trong sản phẩm, dịch vụ; quản trị phải thông minh; tham gia phát triển hạ tầng chiến lược thật tốt.
Tinh thần là các doanh nghiệp phải cùng cả nước xây dựng thể chế thông thoáng, quản trị phải thông minh và hạ tầng phải thông suốt, Thủ tướng nhấn mạnh.
Thứ nhất, tiên phong trong đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ theo Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị.
Thứ hai, tiên phong trong đóng góp tích cực, hiệu quả hơn nữa cho 3 đột phá chiến lược, nhất là đột phá về thể chế đang là điểm nghẽn của điểm nghẽn.
Thứ ba, tiên phong trong bứt phá tăng trưởng, đóng góp thiết thực, hiệu quả cho tăng trưởng, phát triển đất nước nhanh, bao trùm, bền vững.
Thứ tư, tiên phogn trong phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, kinh tế tri thức, trong đầu tư nghiên cứu và phát triển.
Thứ năm, tiên phong tích cực tham gia thực hiện chính sách xã hội và an sinh xã hội, bảo đảm công bằng, tiến bộ, không để ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển, nhất là trong chương trình nhà ở xã hội và xóa nhà tạm, nhà dột nát trên cả nước.
Thứ sáu, tiên phong tạo hàng hóa, sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam, tham gia chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu, nâng cao giá trị thương hiệu quốc gia, vị thế đất nước trong tham gia dẫn dắt các cuộc chơi toàn cầu.
Thủ tướng cùng lãnh đạo các tập đoàn, DNNN tham dự Hội nghị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Từ đó, Thủ tướng đề nghị các doanh nghiệp phải xem làm được gì, đóng góp được gì cho đất nước; cả nước tăng trưởng ít nhất 8% thì các doanh nghiệp phải tăng trưởng từ 8% trở lên.
Thủ tướng yêu cầu Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc trực tiếp chỉ đạo, Bộ Tài chính hoàn thành việc giao chỉ tiêu tăng trưởng cho các doanh nghiệp, ngân hàng nhà nước trước ngày 15/3.
Ngoài nỗ lực lớn, quyết tâm cao, hành động quyết liệt, các doanh nghiệp, ngân hàng chủ động để xuất các chính sách, công cụ cần thiết (như liên quan tăng vốn điều lệ, phát hành trái phiếu, vay tín dụng…) để thực hiện mục tiêu đã đề ra.
Thủ tướng nêu rõ, Nhà nước phải thực sự kiến tạo, muốn kiến tạo thì phải lắng nghe, tiếp thu, cầu thị, những vướng mắc thực tế mà người dân, doanh nghiệp phản ánh thì phải tổng hợp, các bộ ngành theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn phải xử lý, nếu vượt thẩm quyền thì báo cáo cấp có thẩm quyền. Nếu các bộ ngành không xử lý hoặc xử lý chậm trễ thì các doanh nghiệp báo cáo Thủ tướng Chính phủ trên tinh thần minh bạch, thẳng thắn.
Thủ tướng cũng yêu cầu các bộ ngành thiết kế, thực hiện các chính sách vĩ mô để giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, ổn định kinh tế vĩ mô. Lưu ý các chính sách phải ổn định một cách tương đối và phát triển theo thực tiễn, Thủ tướng lấy ví dụ Bộ Tài chính giải quyết dứt điểm vấn đề vốn liên quan BOT và nêu rõ, các công cụ chính sách phải huy động tối đa nguồn lực xã hội, lấy đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư, đẩy mạnh hợp tác công tư theo tinh thần mọi thứ đều có thể làm hợp tác công tư chứ không chỉ hạ tầng.
Thủ tướng yêu cầu các bộ ngành, cơ quan, doanh nghiệp cần quán triệt và quyết liệt thực hiện các Nghị quyết, Kết luận của Trung ương, Quốc hội, Chính phủ, trong đó có Nghị quyết số 58/NQ-CP ngày 21/4/2023 của Chính phủ về một số chính sách, giải pháp trọng tâm hỗ trợ doanh nghiệp chủ động thích ứng, phục hồi nhanh và phát triển bền vững đến năm 2025, Nghị quyết số 158/2024/QH15 ngày 12/11/2024 của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2025, Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 08/01/2025 của Chính phủ về nhiệm vụ giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán NSNN năm 2025, Nghị quyết số 25/NQ-CP ngày 05/02/2025 của Chính phủ về mục tiêu tăng trưởng các ngành, lĩnh vực và địa phương đảm bảo mục tiêu tăng trưởng cả nước năm 2025 đạt 8% trở lên.
Bên cạnh đó, cần thực hiện quyết liệt, hiệu quả chủ trương tinh giản, sắp xếp tổ chức bộ máy của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị, bảo đảm chất lượng và tiến độ theo yêu cầu đề ra; khẩn trương hoàn thiện thể chế cho hoạt động của bộ máy hành chính từ trung ương đến địa phương theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW và chỉ đạo của Trung ương.
Thủ tướng Phạm Minh Chính: Trong bối cảnh cả nước tăng tốc, bứt phá để về đích, thì doanh nghiệp phải tăng tốc, bứt phá và về đích sớm hơn các chủ thể khác - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Về các kiến nghị của doanh nghiệp liên quan việc sửa đổi, thay thế Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp (Luật số 69), chính sách tiền lương, công tác cán bộ, Thủ tướng nêu rõ tinh thần sửa đổi, bổ sung các quy định là xem xét, đánh giá hiệu quả tổng thể của doanh nghiệp, chấp nhận rủi ro; giao mục tiêu, không cầm tay chỉ việc, còn làm thế nào để đạt mục tiêu thì các chủ thể phải huy trí tuệ, năng động, sáng tạo và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các quyết định của mình, nếu làm sai thì xử lý.
Về kiến nghị liên quan nguồn vốn cho các doanh nghiệp, Thủ tướng giao Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc trực tiếp chỉ đạo việc xây dựng, đề xuất chính sách chung, các bộ ngành cùng làm với doanh nghiệp; tinh thần là cái gì có lợi chung thì phải làm, lợi ích hài hòa giữa Nhà nước, doanh nghiệp và Nhân dân.
Về các kiến nghị của các ngân hàng liên quan áp dụng bộ chuẩn mực Basel III, cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (sand box)…, Thủ tướng giao NHNN nghiên cứu triển khai, tinh thần là có không gian để sáng tạo, lấy hiệu quả để đánh giá.
Thủ tướng cũng đồng tình với đề xuất về tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, tuyển dụng và sử dụng nhân tài tại các doanh nghiệp nhà nước với cách tiếp cận, tư duy, phương pháp luận mới.
Thủ tướng khẳng định tinh thần tiếp thu các ý kiến của doanh nghiệp tại hội nghị để hoàn thiện thể chế, tạo điều kiện thuận lợi về vốn, hạ tầng, cùng quản trị thông minh, tháo gỡ cơ chế về con người, cán bộ… cho các doanh nghiệp.
"Các doanh nghiệp phải phát huy tinh thần yêu nước, khát vọng, góp phần đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững; phải nhìn xa trông rộng, nghĩ sâu làm lớn với cách tiếp cận thực tiễn, phản ứng linh hoạt, phù hợp, hiệu quả với tình hình thực tế diễn biến rất nhanh.
Trong bối cảnh cả nước tăng tốc, bứt phá để về đích, thì doanh nghiệp phải tăng tốc, bứt phá và về đích sớm hơn các chủ thể khác", Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh./.