In bài viết

NẮM BẮT THỜI CƠ, KHẨN TRƯƠNG HÀNH ĐỘNG, TẠO ĐỘNG LỰC TĂNG TRƯỞNG MỚI

09:29 - 31/01/2024

(Chinhphu.vn) - Việt Nam đang đứng trước thời cơ và vận hội, mà không phải quốc gia nào cũng có được để tạo dựng và phát triển các động lực mới cho tăng trưởng, đó là: phát triển kinh tế số; kinh tế tuần hoàn; năng lượng tái tạo; công nghiệp bán dẫn.

NẮM BẮT THỜI CƠ, KHẨN TRƯƠNG HÀNH ĐỘNG, TẠO ĐỘNG LỰC TĂNG TRƯỞNG MỚI- Ảnh 1.

Nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Bích Lâm

Kinh tế thế giới năm 2024 đang đối mặt với nhiều bất ổn khác thường do biến động địa chính trị và địa kinh tế phức tạp nhất trong vài thập niên qua, điều kiện tài chính thắt chặt, các quốc gia thực thi riêng rẽ chiến lược giảm thiểu rủi ro dẫn tới kinh tế thế giới phân mảng. Quỹ Tiền tệ Quốc tế cảnh báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu có thể giảm 4,5% trong bối cảnh kinh tế thế giới phân mảng.

Hoạt động kinh tế trong thế giới phân mảng, bất định, khó lường

Trong gần một thập kỷ trở lại đây, thế giới đã trải qua nhiều biến cố, bất định khó lường: cuộc chiến Nga - Ukraine, xung đột ở dải Gaza; căng thẳng gia tăng giữa hai cường quốc kinh tế lớn nhất thế giới là Mỹ và Trung Quốc đã thay đổi luật chơi trong quan hệ kinh tế toàn cầu, trật tự và hoạt động kinh tế thế giới lỏng lẻo, thay đổi mạnh mẽ; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, diễn ra trên nhiều lĩnh vực; các giá trị của chủ nghĩa tự do kinh tế bị thách thức nghiêm trọng, nền quản trị toàn cầu dựa trên các quy tắc của hệ thống quốc tế bị suy yếu; chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch quay trở lại; chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và bài ngoại trỗi dậy, ngăn chặn lẫn nhau. 

Lợi ích và an ninh quốc gia đang định hình toàn diện mọi chính sách kinh tế trên quy mô toàn cầu. Chính phủ Mỹ kêu gọi: "Chuyển sản xuất sang các nước thân hữu"; Cộng đồng chung châu Âu đưa ra chủ trương: "Giảm thiểu rủi ro" từ sự phụ thuộc vào Trung Quốc; Trung Quốc hành động theo phương châm: "Tự cung tự cấp" giảm phụ thuộc vào cấm vận công nghệ và thương mại của Mỹ.

Trước hệ luỵ của những biến cố, bất định khó lường, Diễn đàn Kinh tế thế giới 2022 nêu ra các vấn đề nóng của toàn cầu, phản ánh kinh tế thế giới có những thay đổi sâu sắc như: thay đổi chuỗi cung ứng toàn cầu và địa kinh tế; thế giới phân mảng. Diễn đàn Kinh tế thế giới 2023 tập trung vào chủ đề "Hợp tác trong một thế giới phân mảng" nhằm thảo luận cách thức giải quyết sự phân mảng và xói mòn lòng tin gia tăng ở cả cấp độ toàn cầu và cấp quốc gia. Đây không phải lần đầu tiên toàn cầu hóa bị đe dọa và những quan ngại địa chính trị đã chia rẽ dòng vốn và thương mại toàn cầu.

Ngày 11/12/2023, tại Đại hội Thế giới lần thứ XX của Hiệp hội Kinh tế Quốc tế được tổ chức với chủ đề chính: "Chúng ta có đang ở điểm bước ngoặt không?", bà Gita Gopinath, Phó Tổng Giám đốc điều hành Quỹ Tiền tệ Quốc tế cho rằng thế giới đang ở điểm bước ngoặt, đang phân mảng địa chính trị toàn cầu - Điều này tác động rất mạnh, ảnh hưởng nghiêm trọng tới toàn cầu hoá, ngăn cản tự do luân chuyển dòng vốn và thương mại quốc tế. 

Hơn nữa, Bà còn đi xa hơn khi đặt câu hỏi: "Có phải chăng chúng ta đang trên bờ vực của một cuộc Chiến tranh Lạnh lần thứ hai" khi cạnh tranh gay gắt giữa hai siêu cường là Mỹ và Trung Quốc về ý thức hệ, về cấu trúc kinh tế đang đe doạ đến an ninh kinh tế và an ninh quốc gia của các nước; khi đó thế giới bị phân mảng theo các khối tương đồng về chính trị.

Trong 5 năm qua, rủi ro địa chính trị đã gia tăng mối đe doạ đến tự do luân chuyển hàng hóa và dòng vốn. Một số biện pháp được áp dụng, bao gồm thuế quan hoặc hạn chế xuất khẩu trực tiếp nhằm vào hoạt động thương mại và đầu tư. Trong năm 2022, khoảng 3.000 biện pháp hạn chế thương mại đã được áp dụng, gấp gần 3 lần số lượng áp dụng trong năm 2019.

Sau khi xảy ra cuộc chiến giữa Nga và Ukraine, kinh tế thế giới bị phân mảng khiến tốc độ tăng trưởng thương mại toàn cầu chậm lại. Đặc biệt, tốc độ tăng trưởng thương mại giữa các khối không tương đồng về chính trị chậm lại nhiều hơn. Cụ thể, tăng trưởng thương mại nội khối đã giảm xuống 1,7% từ mức 2,2% trước chiến tranh ở Ukraine. Trong khi tăng trưởng thương mại giữa các khối đã giảm từ 3% trước chiến tranh xuống khoảng -1,9%. Tổng hợp hai điều này tạo ra mức tăng trưởng thương mại nội khối cao hơn 3,8% so với giữa các khối.

Năm 2023, thương mại giữa Nga và Trung Quốc đạt hơn 240 tỷ USD, mức cao kỷ lục trong quan hệ thương mại giữa hai nước, tăng 26,3% so với năm 2022; ngược lại, thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc đã giảm 11,6%.

Cùng với thương mại quốc tế, trong những cuộc thảo luận về sử dụng nguồn vốn, các công ty đa quốc gia tập trung trao đổi nhiều hơn đến vấn đề chuyển dịch dòng vốn về nước mình; chuyển dịch về gần nước mình; chuyển dịch về các nước thân hữu và phi toàn cầu hóa.

Mô hình này mang lại lợi ích cho các quốc gia nhìn từ góc độ giảm thiểu rủi ro đứt gãy chuỗi cung ứng và tăng cường an ninh quốc gia. Nhưng nếu quản lý và vận hành không đúng, mô hình này có thể gây tổn thất lớn hơn so với lợi ích nó đem lại và có khả năng đảo ngược những thành quả đã giúp hàng tỷ người thoát khỏi đói nghèo trong gần ba thập kỷ của hòa bình, hội nhập và tăng trưởng vừa qua.

Trong thế giới phân mảng, các quốc gia không liên kết đóng vai "Quốc gia kết nối" giữa các khối, hưởng lợi trực tiếp từ sự chuyển hướng thương mại và đầu tư trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang rạn nứt, cùng với đó vai trò quốc gia kết nối làm giảm bớt tác động tiêu cực của sự phân mảng trong thương mại, do đó giảm bớt tổn thất.

Bằng số liệu thực tế, IMF đã chỉ rõ thế giới phân mảng làm suy giảm thương mại quốc tế và đầu tư nước ngoài giữa các khối. Nhưng giá trị trao đổi thương mại hàng hoá quốc tế và tiếp nhận dòng vốn FDI tăng lên đối với các nước không liên kết. Ấn Độ, Mexico và Việt Nam đang hưởng lợi từ sự thay đổi mô hình thương mại và các nhà đầu tư nước ngoài mong muốn gia tăng đầu tư vào các thị trường này trong thời gian tới.

Năm 2022, trong bối cảnh dòng vốn FDI toàn cầu giảm 24,2% so với năm 2019 - thời điểm trước khi xảy ra đại dịch, lần đầu tiên Việt Nam lọt vào top 20 nền kinh tế thu hút vốn FDI nhiều nhất thế giới, tăng 11%. Năm 2023, Việt Nam thu hút 36,6 tỷ USD vốn FDI, trong đó vốn từ Trung Quốc chiếm 12,3%, tăng 3,3% so với năm trước; Hồng Kông chiếm 12,8%, tăng 4,9%; vốn từ Nhật Bản chiếm 18%, tăng 0,7% so với năm 2022.

Kim ngạch hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ năm 2019 chiếm 2,7% tổng kim ngạch hàng hoá nhập khẩu của Mỹ, tăng lên 3,9% năm 2022; số liệu tương ứng của Ấn Độ là 2,3% và 2,6%; Trung Quốc giảm 1,5 điểm phần trăm từ 18% năm 2019 xuống 16,5% năm 2022.

Vì lợi ích và an ninh quốc gia, các nước định hình lại chiến lược đầu tư nước ngoài

NẮM BẮT THỜI CƠ, KHẨN TRƯƠNG HÀNH ĐỘNG, TẠO ĐỘNG LỰC TĂNG TRƯỞNG MỚI- Ảnh 2.

Đại dịch, các biến cố địa chính trị, cạnh tranh địa chiến lược và kinh tế giữa các nước lớn đã định hình lại hướng đi của dư luận toàn cầu, xu hướng bảo hộ ngày càng gia tăng. Đặc biệt, chính phủ các nước đã khẩn trương đưa ra các giải pháp bảo vệ doanh nghiệp có thể bị phá sản khỏi sự thâu tóm bởi nước ngoài. Các nhà đầu tư Trung Quốc với sự ủng hộ của Chính phủ đã xuất hiện trong những thương vụ mua bán sáp nhập các doanh nghiệp nước ngoài đang bên bờ của sự phá sản hay đang gặp khó khăn do đại dịch gây nên. 

Đối mặt với nguy cơ này, ngày 25/3/2020, Ủy ban châu Âu công bố hướng dẫn mới quy định bổ sung về tiêu chuẩn sàng lọc đầu tư nước ngoài trong và sau đại dịch. Những hướng dẫn này không tạo ra luật mới, nhưng khuyến nghị mạnh mẽ các quốc gia thành viên EU thực thi nghiêm túc cơ chế sàng lọc đầu tư nước ngoài của quốc gia để bảo vệ những tài sản nhạy cảm khỏi bị nước ngoài thôn tính. Các nước thành viên EU như Tây Ban Nha, Ý và Pháp đã thực hiện ngay bằng những sửa đổi cụ thể đối với các quy định về đầu tư nước ngoài của họ để giải quyết mối lo ngại này, chẳng hạn như giảm ngưỡng xem xét đối với một số hoặc tất cả các nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời mở rộng danh mục các lĩnh vực phải xem xét. 

Những thay đổi về tiêu chuẩn sàng lọc đầu tư nước ngoài không chỉ diễn ra ở châu Âu, các quốc gia như Úc, Canada và Ấn Độ đều áp đặt những hạn chế chặt chẽ hơn đối với đầu tư nước ngoài để bảo vệ các mục tiêu trong nước khỏi bị nước ngoài chiếm đoạt. Những quy định này có tác động chung và cụ thể đối với một số lĩnh vực quan trọng, nhậy cảm của quốc gia. Quy định thay đổi các ngưỡng xem xét được hạ thấp trên một loạt những lĩnh vực ở nhiều cấp độ khác nhau làm tăng khả năng cần xem xét để sàng lọc dự án, đặc biệt đối với một số nhà đầu tư nhạy cảm. 

Trước đại dịch, quy định về đầu tư nước ngoài ở Tây Ban Nha được tự do hóa, với một số ngoại lệ nhất định liên quan đến các lĩnh vực và giao dịch cụ thể cần có sự cho phép trước. Tuy nhiên, ngày 18/3/2020, Tây Ban Nha thắt chặt đáng kể các quy định về đầu tư nước ngoài. Theo quy định mới, nhà đầu tư có trụ sở bên ngoài EU phải được chấp thuận trước mới được mua lại cổ phần từ 10% trở lên, hoặc quyền quản lý trong một công ty Tây Ban Nha. Hơn nữa, khi nhà đầu tư nước ngoài chịu sự kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp của chính phủ nước ngoài, thì quy định về đầu tư nước ngoài chặt chẽ hơn sẽ áp dụng cho các khoản đầu tư trên tất cả các lĩnh vực. 

Ngày 28/4/2020, Pháp ra thông báo sẽ hạ thấp ngưỡng kiểm soát đối với việc mua lại cổ phần của các nhà đầu tư ngoài châu Âu. Đây là thay đổi đáng kể so với quy định trước ngày 1/4/2020 bằng cách thắt chặt hơn nữa ngưỡng kiểm soát ở mức 10% so với ngưỡng 25% đã được hạ xuống chỉ vài tuần trước đó.

Ấn Độ đã nới lỏng đáng kể Luật Đầu tư nước ngoài trong vài năm qua, đặc biệt từ năm 2017. Trái ngược với hướng đi trước đó, ngày 17/4/2020, Chính phủ Ấn Độ tuyên bố thắt chặt các quy định về đầu tư nước ngoài để hạn chế "Việc chiếm đoạt cơ hội và mua lại các công ty Ấn Độ". 

Cùng với đó, Ấn Độ còn đưa ra hạn chế mới áp dụng đối với các nhà đầu tư từ các quốc gia có chung biên giới trên bộ với Ấn Độ hoặc chủ sở hữu thụ hưởng là công dân của quốc gia đó. Chính phủ sẽ phê duyệt tất cả các dự án đầu tư nước ngoài thuộc mọi lĩnh vực đến từ các quốc gia có chung đường biên giới, đồng thời yêu cầu phê duyệt đối với những thay đổi về quyền sở hữu có lợi đối với bất kỳ nguồn vốn đầu tư nước ngoài hiện tại hoặc tương lai thuộc phạm vi của hạn chế mới. Sửa đổi này có tác động lớn đến sự dễ dàng đầu tư từ Trung Quốc. 

Lợi ích quốc gia là tối thượng, Mỹ tập trung phát triển kinh tế trong nước, đảm bảo an ninh quốc gia

Ngay khi bước chân vào Nhà trắng, Cựu Tổng thống Donald Trump nhìn nhận Trung Quốc là mối đe dọa địa chính trị mới của thế kỷ 21. Tầm nhìn mới của Tổng thống Donald Trump đã thuyết phục được nhiều quốc gia, tạo bước ngoặt chính trị và mở ra cuộc chiến thương mại với Trung Quốc.

Chính quyền Mỹ cáo buộc Trung Quốc trộm cắp sở hữu trí tuệ, vi phạm luật pháp quốc tế, tiến hành các hoạt động gián điệp và trộm cắp bí mật quân sự có hệ thống. Những tuyên bố này được đánh giá là sự khởi đầu của một cuộc Chiến tranh Lạnh mới. 

Tổng thống Donald Trump đã cấm các công ty công nghệ Mỹ mua bán các trang thiết bị từ Trung Quốc, trong đó có Tập đoàn Quốc tế sản xuất chất bán dẫn (SMIC), nhà sản xuất chip điện tử hàng đầu của Trung Quốc.

Mối lo ngại của Mỹ là chất bán dẫn tiên tiến cung cấp năng lượng cho điện thoại thông minh của Huawei cũng có thể được sử dụng cho các ứng dụng quân sự, chẳng hạn như máy bay không người lái được điều khiển bằng trí tuệ nhân tạo (AI) hoặc siêu máy tính để giải mã và giám sát.

Chính sách của chính quyền Donald Trump đưa ra dựa trên quan điểm "American First" - Nước Mỹ trên hết, đặt lợi ích quốc gia lên trên cả các mối quan hệ ngoại giao, tập trung vào các mục tiêu phát triển kinh tế và giảm thâm hụt thương mại.

Theo đó Mỹ chỉ đầu tư nguồn lực vào các tổ chức quốc tế nếu thấy có lợi cho nước Mỹ. Chính sách kinh tế và thương mại thể hiện quan điểm duy trì ổn định, giữ doanh nghiệp Mỹ ở lại trong nước để tạo việc làm cho lao động Mỹ, tăng cường đàm phán các hiệp định song phương với những điều kiện có lợi cho nước Mỹ.

Chính sách kinh tế dưới thời Tổng thống Donald Trump tập trung thúc đẩy các ngành công nghiệp mới giành được lợi thế trước các đối thủ cạnh tranh.

Kết quả là trong ba năm, với hàng loạt biện pháp quyết liệt, kinh tế Mỹ đạt được mức tăng trưởng ổn định và cao hơn so với tốc độ tăng trong suốt 8 năm trước đó, tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống mức thấp nhất trong nhiều năm.

Đắc cử Tổng thống năm 2020, ông Joe Biden vẫn tiếp tục cuộc Chiến tranh Lạnh mới do chính quyền Tổng thống Donald Trump phát động và dẫn đầu. Mới gần đây, ngày 18/12/2023, Chính phủ Mỹ tiếp tục hạn chế thương mại điện tử với một số doanh nghiệp Trung Quốc với mục đích kiềm chế công nghệ điện tử, bán dẫn của Trung Quốc. Cùng với đó, Tổng thống Joe Biden xây dựng lại các liên minh và tái gia nhập các thỏa thuận quốc tế, đồng thời thúc đẩy hợp tác với các đồng minh và đối tác như EU và Nhật Bản.

Trung Quốc hỗ trợ và bảo vệ các lĩnh vực kinh tế trọng điểm, định hình kinh tế thế giới

Tháng 5/2015, Trung Quốc công bố và thực hiện Kế hoạch "Made in China 2025" với mục tiêu đưa các nhà sản xuất nội địa thống trị trong nước và đưa Trung Quốc thống trị toàn cầu, trở thành siêu cường chế tạo trên thế giới.

Kế hoạch đưa ra 10 lĩnh vực công nghệ cao, là những lĩnh vực cốt lõi, quyết định tương lai của kinh tế thế giới, như: xe hơi chạy bằng điện; công nghệ thông tin, viễn thông thế hệ mới; trí tuệ nhân tạo; công nghệ nano; robot tiên tiến; kỹ thuật hàng không vũ trụ…

Dữ liệu từ Fitch Ratings cho thấy đối tượng được nhận trợ cấp hàng đầu từ Chính phủ Trung Quốc chủ yếu là các công ty công nghệ có liên hệ chặt chẽ với Made in China 2025. Năm 2020, Chính phủ đã hỗ trợ cho các công ty liên kết Made in China 2025 khoảng 100 tỷ nhân dân tệ, tăng hơn 2 lần so với năm 2015; đến năm 2021, trợ cấp chính phủ đạt 217,92 tỷ nhân dân tệ.

Chính phủ Trung Quốc ưu tiên "nuôi dưỡng" và phát triển các nhà sản xuất xe năng lượng mới trong bối cảnh ngành công nghiệp toàn cầu đang nỗ lực chuyển sang kỷ nguyên điện khí hóa. Sau 7 năm thực hiện Kế hoạch, công ty BYD đã vượt Tesla trở thành nhà sản xuất xe điện lớn nhất thế giới tính theo lượng xe bán ra.

Tháng 5/2019, Chính quyền của Tổng thống Donald Trump đã đưa Huawei - Gã khổng lồ công nghệ Trung Quốc vào danh sách đen của Bộ Thương mại Mỹ. Cựu Tổng thống đã ban hành sắc lệnh có hiệu lực từ tháng 9/2020 ngăn cản Huawei sử dụng các công nghệ của Mỹ bằng việc cấm Huawei và các công ty con, công ty liên kết mua các thiết bị bán dẫn được tạo ra bằng thiết bị hoặc phần mềm của Mỹ được xem như bản án tử đối với tập đoàn Huawei. Lệnh trừng phạt gần như làm tê liệt Tập đoàn.

Trong bối cảnh đó, Chính phủ Trung Quốc đã dành cho Huawei sự hỗ trợ chưa từng có. Bloomberg phát hiện ra mạng lưới các doanh nghiệp được hỗ trợ bởi quỹ đầu tư của chính quyền thành phố Thâm Quyến, tập trung vào việc giúp Huawei xây dựng mạng lưới chip tự cung cấp. Nhóm này bao gồm các chuyên gia quang học, nhà phát triển thiết bị chip và nhà sản xuất hóa chất, góp phần vào gói hỗ trợ trị giá 30 tỷ USD của chính phủ để hỗ trợ Huawei xây dựng các cơ sở chế tạo chip.

Chính phủ Trung Quốc cũng tăng cường hỗ trợ, mở đường cho mối quan hệ cộng sinh của Huawei với các công ty ở nhiều mảng khác nhau; liên kết với Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc. Chính các biện pháp của Mỹ nhằm kiểm soát xuất khẩu công nghệ cho Trung Quốc đã gắn kết chính quyền Trung Quốc và ngành công nghiệp bán dẫn lại với nhau theo cách chưa từng có tiền lệ.

Cùng với hỗ trợ của chính phủ, tinh thần tự lực tự cường, vì danh dự của đất nước đã giúp Huawei không bị phụ thuộc vào công nghệ Mỹ. Với tầm nhìn chiến lược, từ nhiều năm trước nhà sáng lập Tập đoàn, Nhậm Chính Phi đã chuẩn bị cho những biến cố không lường có thể xảy ra. Huawei từ lâu đã luôn tự nhắc mình tránh tự mãn và chuẩn bị cho các khủng hoảng bất ngờ.

Ngay khi bị liệt vào danh sách đen của Mỹ vào năm 2019, nhà sáng lập Huawei đã thúc 10.000 kỹ sư làm việc hết sức nhằm chạy đua với thời gian, thiết kế lại bảng mạch và phần mềm để công ty có thể hoạt động mà không cần công nghệ Mỹ. Vào những thời điểm bận rộn nhất, một số nhân viên không rời khỏi trụ sở Thâm Quyến trong nhiều ngày, sống bằng mì ăn liền và ngủ trên ghế. Nỗ lực hết mình đó đã giúp công ty duy trì kinh doanh.

Chưa đầy 5 năm sau khi lệnh trừng phạt của Mỹ, Huawei giờ đây đã trở lại vững vàng và trở thành "vũ khí" quan trọng nhất của Trung Quốc trong "cuộc chiến" về vật liệu bán dẫn – Thứ sẽ định hình nền kinh tế thế giới trong nhiều thập kỷ tới. Tập đoàn Huawei không chỉ đóng vai trò là khách hàng quan trọng nhất của các nhà sản xuất và thiết kế chip hàng đầu Trung Quốc, mà còn tăng cường hỗ trợ tài chính và kỹ thuật cho các công ty nhỏ hơn trong các lĩnh vực chiến lược của chuỗi cung ứng chip.

Sau nhiều biến cố, "văn hóa chiến lang" của Huawei đã giúp Tập đoàn tiếp tục cuộc chơi trên chiến trường công nghệ. Trong bối cảnh Trung Quốc hướng tới mục tiêu độc lập trong toàn bộ chuỗi cung ứng chất bán dẫn, những thành quả của Trung Quốc sẽ tiếp tục khiến Mỹ và phương Tây lo ngại.

Có thể thấy, trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược và kinh tế giữa hai cường quốc hàng đầu thế giới ngày càng gia tăng và khốc liệt, Chính phủ Mỹ và Trung Quốc đã thực hiện xuất sắc vai trò "Bà đỡ" để hình thành và nuôi dưỡng, đồng thời thực hiện hiệu quả vai trò "Người đồng hành" tin cậy, đầy quyền lực để bảo vệ, phát triển những lĩnh vực mới, cốt lõi quyết định sự thịnh vượng của quốc gia và tương lai của kinh tế thế giới. Thiết nghĩ, đây là giải pháp và bài học về xây dựng và củng cố nền kinh tế độc lập tự chủ trong một thế giới phân mảng.

Kinh tế Việt Nam 2024: Nâng cao giá trị, phát huy hiệu quả các động lực hiện có trong bối cảnh kinh tế thế giới phân mảng

NẮM BẮT THỜI CƠ, KHẨN TRƯƠNG HÀNH ĐỘNG, TẠO ĐỘNG LỰC TĂNG TRƯỞNG MỚI- Ảnh 3.

Trong những thập kỷ gần đây, động lực tăng trưởng kinh tế Việt Nam bao gồm bốn nhóm: Cải cách, bổ sung và hoàn thiện môi trường thể chế; thúc đẩy đầu tư, đặc biệt là đầu tư công trong xây dựng cơ sở hạ tầng, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ; thúc đẩy tổng cầu tiêu dùng trong nước. Trong bối cảnh kinh tế thế giới phân mảng tác động trực tiếp với các mức độ khác nhau tới bốn nhóm động lực, tận dụng thời cơ và thuận lợi của kinh tế nước ta với vai trò "kết nối,"Chính phủ cần có những giải pháp kịp thời nhằm làm mới, nâng cao giá trị và phát huy hiệu quả của từng động lực lên tầm cao hơn, thúc đẩy tăng trưởng nhanh và bền vững, nâng cao mức sống dân cư.

Trước những bất cập về môi trường pháp lý, chính sách còn mâu thuẫn, điều kiện kinh doanh còn nhiều rào cản; tình trạng sở hữu chéo và sân sau làm giảm đáng kể hiệu quả của chính sách tín dụng và lãi suất, gây bất ổn vĩ mô; sự chậm trễ, kém hiệu quả trong thực thi chính sách; một bộ phận cán bộ, công chức né tránh, đùn đẩy công việc, sợ trách nhiệm, Chính phủ cần chỉ đạo các bộ, ngành và địa phương khẩn trương đánh giá những tồn tại, bất cập, thách thức đang cản trở các nhóm động lực tăng trưởng, kịp thời đưa ra giải pháp tháo gỡ nhằm phát huy tối đa sức mạnh, tính hiệu quả của từng nhóm động lực.

 Khẩn trương hoàn thiện thể chế đưa các thị trường nhân tố vào vận hành theo cơ chế thị trường, cung cấp kịp thời với giá cạnh tranh các yếu tố đầu vào cho sản xuất, giảm chi phí; đẩy mạnh chuyển đổi số, gia tăng hàm lượng đổi mới sáng tạo trong sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và năng lực cạnh tranh của sản phẩm trong nước.

Kinh tế thế giới phân mảng, vì lợi ích và an ninh quốc gia, các nước đang điều chỉnh chính sách kinh tế và môi trường pháp lý về sản xuất, kinh doanh. Chính phủ cần theo dõi, nhận biết những thay đổi của quốc tế, khẩn trương sửa đổi, bổ sung thể chế, tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện thể chế có ý nghĩa rất quan trọng, tạo nền tảng phát huy tối đa hiệu quả của các nhóm động lực tăng trưởng khác.

Hiện nay, hiệu suất quản lý và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của nước ta còn thấp; nhiều dự án, công trình kéo dài thời gian thi công, chậm đưa vào sử dụng, gây thất thoát, lãng phí, cản trở sản xuất kinh doanh. Chính phủ cần sửa đổi thể chế, xoá bỏ các quy định mâu thuẫn; đổi mới cải tiến công tác lập kế hoạch và thẩm định dự án đầu tư công để mỗi dự án thực sự trở thành công trình hiệu quả. Đặc biệt, Chính phủ cần xây dựng chiến lược, kế hoạch, chương trình đầu tư phù hợp, đáp ứng đúng và trúng nhu cầu của từng ngành, lĩnh vực và địa phương. Đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công sớm đưa các dự án công trình vào sử dụng; xóa bỏ tình trạng nhiều dự án trọng điểm chậm tiến độ nhiều năm.

Trong thế giới phân mảng, kinh tế Việt Nam đóng vai trò "kết nối" trong thương mại và đầu tư quốc tế. Năm 2024 và các năm tiếp theo, dự báo dòng vốn FDI sẽ đổ vào nước ta. Chính phủ cần khẩn trương xác định cụ thể danh mục ngành, lĩnh vực cần thu hút đầu tư nước ngoài và ngành, lĩnh vực chỉ các nhà đầu tư trong nước thực hiện. 

Xây dựng các quy định, tiêu chuẩn như một bộ lọc mới nhằm lựa chọn các nhà đầu tư nước ngoài có công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi trường, thật sự có năng lực; đồng thời ban hành các quy định để bảo vệ uy tín và hiệu quả đầu tư của các nhà đầu tư nghiêm túc, luôn tuân thủ pháp luật Việt Nam và thông lệ quốc tế. 

Đặc biệt, chúng ta cần tỉnh táo lựa chọn các dự án FDI, không để một số nước chuyển một phần hoạt động sản xuất sang Việt Nam nhằm tận dụng lợi thế của các FTA mà Việt Nam đã ký, biến Việt Nam thành "vùng đệm", thực hiện lắp ráp thành phẩm rồi tái xuất.

Cải thiện môi trường đầu tư, cải cách thủ tục hành chính tiếp tục là nhiệm vụ cấp bách để thu hút và hấp thụ nguồn vốn đầu tư chất lượng cao; thực hiện nghiêm và hiệu quả bảo hộ sở hữu trí tuệ; khẩn trương nâng chất lượng nguồn nhân lực; đặc biệt, cần có chính sách đặc thù hỗ trợ doanh nghiệp trong nước có đủ năng lực và điều kiện tham gia vào chuỗi giá trị xuất khẩu của các tập đoàn nước ngoài ở phân khúc có công nghệ và giá trị cao, xoá bỏ tình trạng doanh nghiệp Việt chỉ làm gia công ở khâu sử dụng lao động giản đơn.

Trong suốt thập kỷ qua, phát triển xuất khẩu theo mô hình tăng trưởng bền vững đã và đang trở thành động lực quan trọng đóng góp và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Quy mô thương mại quốc tế của nền kinh tế ngày càng lớn, lần đầu tiên vượt mốc 730 tỷ USD vào năm 2022; năng lực cạnh tranh xuất khẩu ngày càng được củng cố, nhiều mặt hàng xuất khẩu của nước ta có vị trí quan trọng trong xếp hạng thành tích xuất khẩu của thế giới.

Hiện nay, thị trường nhập khẩu quốc tế đưa ra nhiều đòi hỏi mới với các quy định và tiêu chuẩn khắt khe hơn đối với hàng hoá xuất khẩu của các nước. Tại châu Âu, một trong những thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam, xung quanh "Thỏa thuận xanh châu Âu" có một gói các hành động nhằm giảm phát thải khí nhà kính và giảm thiểu việc sử dụng tài nguyên. Từ đó, nhiều quy định mới được đưa ra với những hàng hóa muốn xuất khẩu vào thị trường này, như: Quy định chống phá rừng của EU áp dụng từ 30/12/2024, sẽ tác động tới nông sản xuất khẩu của nước ta; EU đang hướng đến mục tiêu loại bỏ văn hóa "tiêu thụ và vứt bỏ", loại bỏ các sản phẩm có "vòng đời ngắn" và nền kinh tế "tạo rác". 

Những quy định này sẽ tác động trực tiếp đến xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang EU; Cơ chế điều chỉnh carbon sẽ áp thuế carbon đối với những hàng hoá nhập khẩu vào EU. Để đáp ứng các quy định và đòi hỏi khắt khe của thị trường, Chính phủ cần tiến hành xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý, bổ sung các tiêu chuẩn, tiêu chí xanh trong sản xuất, có giải pháp hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp để sản phẩm xuất khẩu của nước ta đáp ứng yêu cầu của thị trường quốc tế.

Kinh tế thế giới phân mảng đang điều chỉnh lại dòng chảy thương mại. Các nước luôn đặt sự ổn định, bền vững, đảm bảo lợi ích và an ninh quốc gia lên trên hết, vì vậy họ sẽ tìm kiếm các giải pháp bảo vệ lợi ích thương mại, giảm thiểu tổn thất gây ra bởi phân mảng. 

Trong bối cảnh đó, Việt Nam cần xác định nhóm các đối tác cần đẩy mạnh quan hệ kinh tế, trao đổi thương mại đa phương, đa dạng hoá, không phân biệt đối xử giữa các khối; tăng cường hội nhập, giảm thiểu rủi ro, giữ vững ổn định để phát triển. Chúng ta cần có tư duy mới, trí tuệ, linh hoạt để phát huy hiệu quả nhất vai trò của nền kinh tế kết nối, không để các khối lợi dụng, núp bóng, hưởng lợi qua hoạt động đầu tư và thương mại quốc tế với Việt Nam.

Kinh tế Việt Nam 2024: Nắm bắt thời cơ, tạo động lực mới cho tăng trưởng nhanh và bền vững

NẮM BẮT THỜI CƠ, KHẨN TRƯƠNG HÀNH ĐỘNG, TẠO ĐỘNG LỰC TĂNG TRƯỞNG MỚI- Ảnh 4.

Kinh tế thế giới đang có những thay đổi nhanh chóng, với việc ứng dụng mạnh mẽ công nghệ mới, tiên tiến; ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong sản xuất và đời sống đáp ứng mục tiêu toàn cầu vì một hành tinh xanh.

Trong xu hướng phát triển hiện nay, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, sử dụng năng lượng tái tạo sẽ định hình lại và quyết định sự phát triển của kinh tế toàn cầu. Các ngành công nghệ cao, công nghiệp chíp điện tử và bán dẫn trở thành ngành công nghiệp lõi tiềm năng mới.

Công nghiệp vi mạch bán dẫn đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với cuộc cách mạng chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh tế tri thức, thay thế cho mô hình phát triển dựa vào tài nguyên thiên nhiên trước đây.

Với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, không chọn bên, mà chọn công lý và lẽ phải, là bạn tốt, đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; với chính sách ngoại giao linh hoạt, đúng đắn, Việt Nam có quan hệ đối tác chiến lược với tất cả 5 ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, Việt Nam đã là đối tác Chiến lược toàn diện với Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản và Nga. Vị thế của Việt Nam được nâng tầm, trở thành một trung tâm chính trị - kinh tế - an ninh khu vực.

Đây là thời cơ và lợi thế rất lớn để Việt Nam củng cố an ninh quốc gia, tạo dựng động lực mới cho tăng trưởng nhanh và bền vững. Việc nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Mỹ và Nhật Bản, nhấn mạnh trọng tâm hợp tác là thương mại, đầu tư, khoa học công nghệ là tiền đề quan trọng cho phát triển kinh tế, đặc biệt đối với đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực công nghệ cao và xuất khẩu.

Việt Nam đang đứng trước thời cơ và vận hội, mà không phải quốc gia nào cũng có được để tạo dựng và phát triển các động lực mới cho tăng trưởng, đó là: phát triển kinh tế số; kinh tế tuần hoàn; năng lượng tái tạo; công nghiệp bán dẫn.

Phát triển kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, năng lượng tái tạo - Động lực mới cho phát triển bền vững 

NẮM BẮT THỜI CƠ, KHẨN TRƯƠNG HÀNH ĐỘNG, TẠO ĐỘNG LỰC TĂNG TRƯỞNG MỚI- Ảnh 5.

Phát triển kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, năng lượng tái tạo là xu thế tất yếu, không thể trì hoãn, là động lực quan trọng cho phát triển bền vững, mở rộng không gian, tạo cơ hội đột phá cho phát triển, là giải pháp thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, ứng phó với biến đổi khí hậu đang diễn biến ngày càng phức tạp, khó lường.

Kinh tế nước ta cần khẩn trương thực hiện kinh tế tuần hoàn, sử dụng năng lượng tái tạo vì hầu hết các hiệp định thương mại mà Việt Nam đã cam kết đều có các quy định, thỏa thuận về phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, tuân thủ các tiêu chuẩn phát thải chất thải, khí thải.

Để phát triển kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, năng lượng tái tạo chúng ta phải xử lý khá nhiều thách thức. Thánh thức về nhận thức của xã hội đối với kinh tế số; khó khăn trong tạo sự đồng thuận để nhận thức đúng về bản chất của kinh tế tuần hoàn, từ việc thiết kế đến triển khai thực hiện kinh tế tuần hoàn trong các ngành, lĩnh vực, đối với từng doanh nghiệp, người dân và các cấp quản lý.

Môi trường pháp lý và thể chế cho phát triển kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, năng lượng tái tạo chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ. Thể chế phát triển kinh tế số vừa thiếu, với nhiều lỗ hổng, chưa chặt chẽ, thiếu minh bạch và thiếu tính kiến tạo. Hạ tầng phục vụ quá trình chuyển đổi số còn nhiều hạn chế.

Chưa có hành lang pháp lý quy định cụ thể về kinh tế tuần hoàn; chưa xây dựng và ban hành bộ chỉ tiêu để nhận diện, đánh giá, phân loại mức độ phát triển của kinh tế tuần hoàn.

An ninh mạng, bảo mật an toàn thông tin cũng là thách thức không hề nhỏ đối với việc thực hiện và phát triển kinh tế số. Nếu không đảm bảo chắc chắn về an toàn, an ninh mạng, bảo mật thông tin, thì nền kinh tế sẽ phải trả giá đắt khi thực hiện kinh tế số.

Đối với thực hiện kinh tế tuần hoàn đòi hỏi phải đổi mới và áp dụng công nghệ hiện đại. Trong khi đó, Việt Nam là nước đang phát triển, hầu hết công nghệ còn lạc hậu, quy mô sản xuất manh mún, nhỏ lẻ. Năng lực về công nghệ tái sử dụng và tái chế của các doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế.

Phát triển năng lượng tái tạo gặp một số khó khăn, thách thức, đó là: chưa có Chiến lược tổng thể phát triển năng lượng tái tạo quốc gia; thiếu chính sách đồng bộ, đủ mạnh; thiếu cơ chế tài chính, cơ chế quản lý, sử dụng đất phù hợp, hiệu quả cho đầu tư, kết nối, vận hành các dự án điện tái tạo; công nghệ, kỹ thuật năng lượng tái tạo phần lớn phụ thuộc vào bên ngoài.

Nguồn nhân lực cũng là thách thức không hề nhỏ đối với thực hiện kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, năng lượng tái tạo. Nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu chuyển đổi sang kinh tế số; thực hiện kinh tế tuần hoàn đòi hỏi phải có đội ngũ chuyên gia giỏi trong các khâu của quy trình sản xuất, nhất là khâu tái sử dụng, tái chế chất thải một cách hiệu quả, an toàn. Hiện nay, trình độ đào tạo của lao động có việc làm trong nền kinh tế còn thấp chưa đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế khi thực hiện kinh tế số, kinh tế tuần hoàn và năng lượng tái tạo.

Nắm bắt cơ hội, tạo dựng và phát triển công nghiệp bán dẫn, khẳng định vị thế trong chuỗi cung ứng công nghệ lõi toàn cầu

NẮM BẮT THỜI CƠ, KHẨN TRƯƠNG HÀNH ĐỘNG, TẠO ĐỘNG LỰC TĂNG TRƯỞNG MỚI- Ảnh 6.

Công nghiệp bán dẫn là nền tảng thúc đẩy phát triển của các ngành kinh tế quan trọng, như: năng lượng điện, điện tử, tự động hóa, viễn thông, công nghệ thông tin, an ninh, quốc phòng…, vì vậy công nghiệp bán dẫn là một trong những ngành công nghiệp xương sống, cốt lõi trong phát triển kinh tế, bảo vệ an ninh quốc gia.

Năm 2022, ngành công nghiệp bán dẫn toàn cầu đã đạt giá trị 600 tỷ USD, dự báo sẽ vượt ngưỡng 1.000 tỷ USD vào năm 2030, với mức tăng hàng năm trung bình đạt 2 con số. Trước thực tế đó, nhiều nước trên thế giới đang nỗ lực xây dựng ngành công nghiệp bán dẫn để nâng cao khả năng tự chủ của nền kinh tế. Điều này đưa đến cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia trong phát triển và chiếm lĩnh chuỗi cung ứng toàn cầu về công nghiệp bán dẫn.

Nước ta có tiềm lực về đất hiếm, với trữ lượng đứng thứ hai thế giới, đây là nguyên vật liệu quan trọng trong phát triển ngành công nghiệp bán dẫn, phát triển vi mạch và điện tử. Trong tuyên bố chung về quan hệ Đối tác Chiến lược toàn diện Việt – Mỹ, hai bên ghi nhận tiềm năng của Việt Nam trong việc trở thành quốc gia chủ chốt trong ngành công nghiệp bán dẫn, đồng thời ủng hộ sự phát triển nhanh chóng của hệ sinh thái bán dẫn tại Việt Nam.

Vừa qua, nhiều tập đoàn hàng đầu về công nghiệp bán dẫn từ Mỹ đã tới tìm hiểu thị trường, khả năng hợp tác với Việt Nam trong đầu tư vào ngành đất hiếm và bán dẫn. Các yếu tố như cuộc chiến kiểm soát công nghệ lõi, công nghệ chip, công nghệ của tương lai đang mở ra cơ hội cho Việt Nam trong thu hút dự án FDI công nghệ cao.

Mặc dù ngành công nghiệp bán dẫn đã xuất hiện ở Việt Nam từ lâu nhưng do chưa có chiến lược phát triển mang tầm quốc gia, vì vậy lĩnh vực này vẫn còn sơ khai. Hiện nay "thiên thời, địa lợi, nhân hoà" đã đến để Việt Nam phát triển công nghiệp bán dẫn.

Ngành công nghiệp bán dẫn thuộc lĩnh vực công nghệ cao, gồm một chuỗi cung ứng toàn cầu, Việt Nam cần xác định, lựa chọn những khâu phù hợp để tham gia vào chuỗi cung ứng. Chẳng hạn, một chiếc điện thoại thông minh có hơn 165 thiết bị bán dẫn nên không quốc gia nào làm riêng.

Để xây dựng và phát triển công nghiệp bán dẫn đòi hỏi nguồn vốn rất lớn cho thiết kế, đầu tư, sản xuất; cần có hệ sinh thái đầy đủ, đồng bộ từ thiết kế đến sản xuất và đóng gói; đòi hỏi nguồn nhân lực chất lượng cao, có đội ngũ nhà khoa học hàng đầu để đào tạo và thiết kế; đặc biệt, Chính phủ và các tập đoàn hoạt động trong ngành bán dẫn phải có tham vọng và chiến lược dài hạn có tính khả thi.

Theo Bloomberg, Chính phủ Hàn Quốc đã lên lộ trình chi tiết cho tham vọng biến Hàn Quốc thành trung tâm sản xuất chip lớn nhất thế giới vào năm 2047 với số vốn lên tới 471 tỷ USD, phần lớn huy động từ các tập đoàn hàng đầu như Samsung, SK hynix và khối tư nhân.

Cần làm gì để phát triển và khai thác hiệu quả các động lực tăng trưởng mới

NẮM BẮT THỜI CƠ, KHẨN TRƯƠNG HÀNH ĐỘNG, TẠO ĐỘNG LỰC TĂNG TRƯỞNG MỚI- Ảnh 7.

Kinh tế nước ta đang đứng trước thời cơ và vận hội có một không hai để vượt khỏi bẫy thu nhập trung bình, cất cánh trở thành nước công nghiệp phát triển có thu nhập cao trong vài thập niên tới trong một thế giới bất định, khó lường, cạnh tranh gay gắt. Để biến vận hội thành hiện thực, Đảng và Nhà nước cần khẩn trương hành động với tư duy đột phá, nắm bắt thời cơ, thực hiện các nhóm giải pháp kiến tạo và triển khai các động lực mới đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững, cụ thể:

1. Đổi mới tư duy, nâng cao hiệu quả lãnh đạo quản lý và năng lực điều hành kinh tế. Yếu tố quyết định thành công trong tiến trình phát triển đất nước chính là nhận thức đúng, kịp thời nắm bắt thời cơ, khẩn trương hành động để biến thời cơ thành hiện thực phát triển.

Tạo dựng và phát huy hiệu quả các động lực tăng trưởng mới, Đảng cần thống nhất chủ trương, đường lối; Chính phủ cần hoàn thiện thể chế và cơ chế quản lý để thực sự đóng vai trò "Bà đỡ, nuôi dưỡng và người đồng hành tin cậy" đối với các tập đoàn, doanh nghiệp trong những giai đoạn cần thiết, đặc biệt tập trung tạo dựng cho ngành công nghiệp bán dẫn.

Kiến tạo và triển khai thực hiện các động lực tăng trưởng mới, Việt Nam cần tập trung vào bốn nhóm giải pháp chính: hoàn thiện thể chế; phát triển cơ sở hạ tầng; phát triển nguồn nhân lực và cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Chính phủ cần thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ưu tiên phát triển kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, năng lượng tái tạo, công nghiệp bán dẫn.

2. Chính phủ cần khẩn trương xây dựng, ban hành và triển khai thực hiện Chiến lượng tổng thể phát triển kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, năng lượng tái tạo, công nghiệp bán dẫn. Chiến lượng tổng thể cần đề cập đầy đủ các nội dung và mục tiêu cho từng giai đoạn, từ tạo dựng ban đầu, triển khai thực hiện, đến phát huy hiệu quả của từng nhóm động lực mới. Chiến lược tổng thể cần mở đường cho mối quan hệ cộng sinh của từng nhóm động lực với các ngành, lĩnh vực ở nhiều mảng khác nhau của nền kinh tế, liên kết với các viện khoa học, các trường đại học tạo thành hệ sinh thái thống nhất, thúc đẩy phát triển mạng lưới công nghiệp hỗ trợ.

3. Hoàn thiện thể chế, hành lang pháp lý tạo khuôn khổ pháp luật đẩy mạnh phát triển kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, năng lượng tái tạo, công nghiệp bán dẫn. Phát triển bốn nhóm động lực mới không chỉ là cuộc cách mạng về công nghệ mà còn là cuộc cách mạng về thể chế. Thể chế cần tạo ra môi trường pháp lý được điều chỉnh linh hoạt nhằm khuyến khích và chấp nhận công nghệ mới, mô hình mới, sản phẩm mới, dịch vụ mới.

Hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước, xoá bỏ sự chồng chéo, bảo đảm chính sách ổn định, nhất quán. Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác điều phối, thúc đẩy nhanh quá trình triển khai thực hiện các động lực tăng trưởng mới.

Đẩy mạnh hợp tác với chính phủ, các tập đoàn và doanh nghiệp lớn các nước về phát triển công nghiệp bán dẫn để tìm hiểu về các cơ chế, chính sách đặc thù, cần có phục vụ xây dựng cơ chế, chính sách phát triển công nghiệp bán dẫn tại Việt Nam.

4. Từ bài học thành công của các quốc gia trong tạo dựng và phát triển các ngành kinh tế trọng điểm, Chính phủ cần khẳng định quan điểm, thực hiện cơ chế và giải pháp đột phá về vốn, tài chính để đầu tư phát triển các nhóm động lực mới.

Xây dựng và triển khai thực hiện chiến lược tài chính quốc gia với cơ chế ưu đãi thu hút, tận dụng hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài và tham gia của các doanh nghiệp trong nước để chuyển giao công nghệ và gia tăng số công đoạn Việt Nam có thể làm chủ trong chuỗi cung ứng toàn cầu của ngành công nghiệp bán dẫn, từ đó tăng tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế.

Cùng với tập trung đầu tư vào cơ sở hạ tầng, Chính phủ cần phân bổ vốn đầu tư công đa dạng hơn nhằm tạo dựng và thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới. Đầu tư nâng cấp hạ tầng kỹ thuật số; đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu vào, áp dụng khoa học công nghệ vào các ngành, đặc biệt là xử lý rác thải để tái tạo nguyên liệu mới. Ưu tiên phân bổ vốn tín dụng ưu đãi từ nguồn vốn ODA và vốn vay theo hiệp định song phương cho đầu tư vào các dự án như thăm dò, phát triển năng lượng tái tạo.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư khẩn trương trình Chính phủ thành lập Quỹ Hỗ trợ Đầu tư để đa dạng hóa các hình thức ưu đãi, hỗ trợ các dự án trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, công nghiệp bán dẫn, hỗ trợ doanh nghiệp trong nước có tiềm năng về đào tạo nhân lực chất lượng cao, nghiên cứu và phát triển.

5. Con người là chủ thể, trung tâm để tạo dựng và thực hiện các động lực tăng trưởng mới. Chính phủ cần hoàn thiện thể chế, chính sách đồng bộ, thống nhất nhằm nâng cao hiệu quả vận hành thị trường lao động linh hoạt, hội nhập và bền vững đáp ứng nhu cầu lao động chất lượng cao khi thực hiện kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, năng lượng tái tạo, công nghiệp bán dẫn.

Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội khẩn trương nghiên cứu xu hướng chuyển đổi, xác định nhu cầu lao động của nền kinh tế theo từng giai đoạn triển khai tạo dựng và đẩy mạnh thực hiện kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, năng lượng tái tạo, công nghiệp bán dẫn, từ đó có kế hoạch đào tạo mới, đào tạo nâng cao trình độ và kỹ năng của lực lượng lao động.

Chính phủ cần định hướng rõ nguồn lực hỗ trợ và có công cụ điều phối hiệu quả, cùng với sự chủ động vào cuộc của các cơ sở giáo dục đại học và các cơ sở đào tạo, kết hợp với các tập đoàn, doanh nghiệp xác định nhu cầu lao động có trình độ, có kỹ năng của doanh nghiệp để đi trước, đón đầu trong đào tạo nguồn nhân lực nhằm thu hút dòng vốn FDI và đầu tư trong nước vào kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, công nghiệp bán dẫn. Đặc biệt, Chính phủ cần tăng cường năng lực đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất và công nghệ, chương trình đào tạo cho các cơ sở giáo dục đại học để nâng cao năng lực và đảm bảo chất lượng đào tạo.

Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định: "nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài". Việt Nam rất cần một chiến lược bài bản, chuyên nghiệp, cụ thể và đột phá để xây dựng hệ sinh thái vững mạnh nhằm xây dựng đội ngũ nhân lực, đặc biệt xây dựng hệ sinh thái đào tạo, thu hút và sử dụng nhân tài trong lĩnh vực công nghiệp bán dẫn, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn.

Hiện nay, nền kinh tế không có đủ đội ngũ lao động có trình độ cao, Chính phủ, các địa phương, tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp cần có chính sách đặc thù nhằm "thu hút" được các chuyên gia hàng đầu thế giới về công nghiệp bán dẫn, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn và năng lượng tái tạo nhằm áp dụng và phát triển các công nghệ tiên tiến nhất khi triển khai thực hiện các lĩnh vực này ở nước ta, đồng thời đẩy nhanh việc chuyển giao tri thức công nghệ cũng như nhanh chóng cải thiện năng lực chuyên gia trong nước. Nhân rộng chính sách và kinh nghiệm thu hút nhân tài, các nhà chiến lược, nhà quản lý của các tập đoàn kinh tế như trường hợp của Vingroup. Các tập đoàn kinh tế Nhà nước có tiềm lực tài chính cần tích cực thực hiện chủ trương thu hút nhân tài hàng đầu thế giới.

Tại Diễn đàn Kinh tế thế giới 2024, Thủ tướng Chính phủ đưa ra thông điệp: "Không một quốc gia, nền kinh tế nào, nếu vẫn giữ tư duy cũ, chỉ dựa vào các động lực tăng trưởng truyền thống, có thể phát triển nhanh và bền vững"; cũng tại Diễn đàn, Thủ tướng Chính Phủ khẳng định, chuyển đổi, tìm kiếm và kiến tạo các động lực tăng trưởng mới là xu thế khách quan và tất yếu của thế giới ngày nay. Với thông điệp và khẳng định của Thủ tướng Chính phủ; với phương châm "Kỷ cương trách nhiệm; chủ động kịp thời; tăng tốc sáng tạo; hiệu quả bền vững" trong chỉ đạo điều hành năm 2024 của Chính phủ, cộng đồng doanh nghiệp, các hộ sản xuất kinh doanh và các thực thể có liên quan tin tưởng Chính phủ sẽ khẩn trương hành động, năng động sáng tạo, đổi mới, tận dụng lợi thế của nền kinh tế kết nối trong thế giới phân mảng, làm mới và nâng cao giá trị, phát huy hiệu quả các động lực hiện có, tạo dựng động lực tăng trưởng mới, khẳng định vị thế trong chuỗi cung ứng công nghệ lõi toàn cầu, tạo ảnh hưởng của kinh tế Việt Nam ở tầm thế giới, thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững trong những thập niên tới./.

Nguyễn Bích Lâm

Nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê