
Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Tình trạng khẩn cấp
Luật quy định, tình trạng khẩn cấp là trạng thái xã hội được cấp có thẩm quyền ban bố, công bố tình trạng khẩn cấp tại một hay nhiều địa phương hoặc trên phạm vi cả nước khi có thảm họa hoặc nguy cơ xảy ra thảm họa đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe con người, tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức và cá nhân hoặc có tình hình đe dọa nghiêm trọng đến quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Tình trạng khẩn cấp bao gồm: Tình trạng khẩn cấp về thảm họa; Tình trạng khẩn cấp về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; Tình trạng khẩn cấp về quốc phòng.
Trình bày Báo cáo tóm tắt Giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Tình trạng khẩn cấp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Thượng tướng Lê Tấn Tới, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại của Quốc hội cho biết, về thông tin về tình trạng khẩn cấp (Điều 11), hiện nay, số điện thoại 112 đang được sử dụng để tiếp nhận nội dung thông tin về sự cố, thiên tai, thảm họa, những nguy cơ xảy ra, yêu cầu trợ giúp của tổ chức, cá nhân trong phạm vi toàn quốc; Bộ Chỉ huy Quân sự cấp tỉnh là Cơ quan thường trực Ban Chỉ huy phòng thủ dân sự cùng cấp có trách nhiệm quản lý, vận hành, tiếp nhận xử lý thông tin, phản ánh, và những yêu cầu trợ giúp của tổ chức, cá nhân.
Luật quy định Thẩm quyền, trình tự ban bố, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp như sau:
1.Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định ban bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp. Căn cứ vào nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về ban bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp, Chủ tịch nước ra lệnh công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp.
2. Trong trường hợp Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể họp được, Chủ tịch nước ra lệnh công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp.
3. Thủ tướng Chính phủ đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định ban bố, bãi bỏ tình trạng khần cấp; trong trường hợp Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể họp được thì đề nghị Chủ tịch nước ra lệnh công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp.
4. Tình trạng khẩn cấp được bãi bỏ khi không còn nguy cơ xảy ra thảm họa hoặc thảm họa đã được ngăn chặn, khắc phục; tình hình quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội đã ổn định.

Các đại biểu Quốc hội tham dự Phiên họp
Cưỡng chế di dời người dân đến nơi an toàn và yêu cầu chuyển đổi sản xuất hàng hóa cần thiết nếu có thảm họa
Biện pháp được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp khi có thảm họa được quy định cụ thể tại điều 13 của Luật tình trạng khẩn cấp. Trong đó, trên địa bàn được đặt trong tình trạng khẩn cấp khi xảy ra hoặc có nguy cơ xảy ra thảm họạ về thiên tại, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, sự cố bức xạ, hạt nhân hoặc sự cổ khác có thể áp dụng một hoặc một số biện pháp:
Di dời, cưỡng chế di dời người dân trong các khu vực nguy hiểm đến nơi an toàn;
Yêu cầu các doanh nghiệp chuyển đổi sản xuất, kinh doanh hàng hóa cần thiết cho ứng phó thảm họa;
Áp dụng biện pháp bình ổn giá theo quy định của pháp luật về giá; trường hợp hàng hóa, dịch vụ cần bình ổn giá không nằm trong Danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá nhưng cần bình ổn ngay thì do Thủ tướng Chính phủ quyết định;
Kiểm tra, xử lý nghiêm các trường hợp buôn lậu, gian lận thương mại, đầu cơ, gây khan hiếm giả, sản xuất hàng giả đổi với hàng hóa thiết yếu phục vụ phòng, chống dịch bệnh;
Sử dụng vũ lực, vũ khí, công cụ hỗ trợ theo quy định của pháp luật để ngăn chặn, bắt giữ người và phương tiện vi phạm;
Người được điều động, huy động làm nhiệm vụ trong tình trạng khẩn cấp theo quyết định của cấp có thẩm quyền được hưởng chính sách đặc thù và các chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia, phối hợp, cộng tác, hỗ trợ hoạt động trong tình trạng khẩn cấp có thành tích thì được khen thưởng; bị thiệt hại về tài sản thì được đền bù; bị tổn hại về danh dự, nhân phẩm thì được khôi phục; người bị chết, bị thương, tổn hại sức khỏe thì bản thân hoặc gia đình được hưởng chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật.