
Giai đoạn 2021-2025 đánh dấu thời kỳ chưa từng có trong nhiệm kỳ điều hành nền kinh tế của Chính phủ. Đại dịch COVID-19 bùng phát, kéo dài gây đứt gãy chuỗi cung ứng, sản xuất kinh doanh đình trệ, hàng chục triệu lao động bị ảnh hưởng. Môi trường kinh tế toàn cầu liên tục chao đảo bởi lạm phát tăng cao, chính sách thắt chặt tiền tệ mạnh nhất trong nhiều thập kỷ, xung đột địa chính trị leo thang và thương mại thế giới phân mảng. Tất cả tạo ra áp lực khổng lồ lên năng lực điều hành vĩ mô của Chính phủ. Trong hoàn cảnh hiếm có, khó lường ấy, với bản lĩnh điều hành, chính sách tài khóa đã trở thành trụ cột bình ổn, giữ vững nền tảng kinh tế - xã hội, đồng thời tạo lực đẩy cho phục hồi và tăng trưởng.
Giai đoạn 2021-2025 chứng kiến những biến động mạnh, liên tục chưa từng có của kinh tế toàn cầu. Hậu quả của dịch COVID-19 kéo dài đến năm 2021 khiến nhiều nền kinh tế vừa phục hồi đã phải đối mặt với cú sốc mới từ căng thẳng địa chính trị và lạm phát tăng cao.
Các quốc gia phát triển phục hồi nhanh nhờ gói kích thích tài khóa và chính sách tiền tệ nới lỏng, trong khi nhiều nước đang phát triển bị kìm hãm bởi tỷ lệ tiêm vaccine thấp, nợ công cao, chuỗi cung ứng gián đoạn. Tác động này tạo ra sự phục hồi không đồng đều, khiến thương mại và dòng vốn toàn cầu trở nên bất ổn.
Lạm phát nổi lên như thách thức chủ đạo toàn cầu, đặc biệt từ năm 2022, khủng hoảng Nga-Ukraine đẩy giá năng lượng, lương thực tăng cao. Kinh tế thế giới bước vào chu kỳ bất ổn kéo dài.
Lạm phát tại Mỹ, EU tăng cao nhất trong 40 năm qua buộc các ngân hàng trung ương liên tục nâng lãi suất khiến chi phí vốn toàn cầu tăng, áp lực gia tăng lên xuất khẩu hàng hóa cơ bản và các nền kinh tế mới nổi.
Cạnh tranh Mỹ - Trung gia tăng, thương mại toàn cầu bị phân mảng, nhiều biện pháp thuế quan đối ứng được áp dụng, chuỗi cung ứng quốc tế gián đoạn, chi phí logistics cao, giá nguyên liệu biến động, ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và đầu tư, buộc các quốc gia phải điều chỉnh chiến lược kinh tế vĩ mô, cân bằng giữa kiểm soát lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng.
Trong bối cảnh đó, các nền kinh tế lớn như Mỹ, EU và Trung Quốc đều triển khai các gói kích thích có trọng tâm. Mỹ và EU duy trì chính sách thắt chặt tiền tệ kết hợp hỗ trợ tài khóa để kiềm chế lạm phát. Trung Quốc đẩy mạnh đầu tư hạ tầng và kích thích nội địa để bù đắp giảm cầu xuất khẩu.
Sự phân hóa về tốc độ phục hồi giữa các khu vực, cùng với các biện pháp bảo hộ thương mại và xu hướng phân mảng chuỗi cung ứng tạo ra môi trường kinh tế thế giới đầy thách thức, đòi hỏi các quốc gia phải tăng cường khả năng chống chịu và chủ động điều chỉnh chính sách.
Trong hai năm 2024-2025, kinh tế thế giới có dấu hiệu ổn định hơn. Lạm phát giảm dần gần về mức mục tiêu, dòng vốn, thương mại và đầu tư phục hồi, nhưng giá năng lượng và nguyên liệu vẫn còn biến động theo diễn biến địa chính trị.
Các quốc gia hướng tới phát triển bền vững, đẩy mạnh đầu tư vào năng lượng sạch, chuỗi cung ứng bền vững và kinh tế số nhằm tăng khả năng chống chịu trước các biến động. Toàn cầu hóa vẫn diễn ra. Tuy nhiên xu hướng bảo hộ có chọn lọc và chia tách chuỗi cung ứng chiến lược đã đưa đến một thế giới vừa phục hồi vừa đối mặt rủi ro liên tục.
Đại dịch COVID-19: Cú sốc chưa từng có với kinh tế Việt Nam. Năm 2021, nền kinh tế nước ta hứng chịu cú sốc chưa từng có bởi đại dịch COVDI-19 gây nên tác động mạnh mẽ nhất trong thập kỷ qua.
Có 21/63 địa phương phải thực hiện giãn cách xã hội diện rộng, sản xuất kinh doanh đình trệ, hoạt động xuất nhập khẩu gián đoạn, ngành dịch vụ, du lịch gần như đóng băng. Số lượng doanh nghiệp rời thị trường tăng đột biến; tiêu dùng sụt giảm mạnh. GDP quý III/2021 giảm 6,02% và GDP cả năm 2021 chỉ tăng 2,58% - mức tăng thấp nhất trong 30 năm qua.
Kinh tế nước ta phải đối mặt với thách thức kép: Sức chống chịu của nền kinh tế suy giảm nghiêm trọng, trong khi mục tiêu tăng trưởng GDP hàng năm vẫn đặt ở mức cao. Doanh nghiệp kiệt quệ sau nhiều tháng giãn cách; hàng triệu lao động thiếu việc làm. Yêu cầu cấp bách là vừa hỗ trợ doanh nghiệp và người dân, đồng thời phải kiểm soát lạm phát, bảo đảm an toàn tài chính quốc gia.
Giai đoạn 2021-2025 là thời kỳ đầy thử thách, nhưng cũng mở ra cơ hội cho các nền kinh tế biết linh hoạt điều chỉnh chính sách, thích ứng với biến động và thúc đẩy phục hồi.
Bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước có nhiều bất định đã tác động trực tiếp đến chiến lược điều hành chính sách tài khóa của Việt Nam, từ việc quyết định quy mô đầu tư công, hỗ trợ doanh nghiệp và an sinh xã hội, đến quản lý nợ công và kiểm soát lạm phát, đảm bảo giữ vững ổn định vĩ mô, duy trì đà tăng trưởng.
Chính phủ nhiệm kỳ 2021-2025 đã xác lập triết lý điều hành chính sách tài khóa linh hoạt, thận trọng, trọng tâm, hướng tới ổn định, phát triển, thực hiện khá thành công các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội hàng năm và cả giai đoạn.
Dù đối mặt với nhiều sức ép, mục tiêu kiểm soát lạm phát và giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô luôn được coi là điều kiện tiên quyết. Đây là điểm then chốt trong điều hành tài khóa nhiệm kỳ.
Các gói tài khóa được triển khai mạnh, tập trung vào những lĩnh vực có khả năng tạo lan tỏa như đầu tư công, hỗ trợ sản xuất, giảm thuế tiêu dùng, y tế, giáo dục, hạ tầng và an sinh xã hội.
Chính phủ quán triệt phương châm "vốn Nhà nước phải dẫn dắt vốn xã hội", coi đầu tư công là động lực kích hoạt tổng cầu trong bối cảnh doanh nghiệp cắt giảm đầu tư.
Triết lý điều hành chính sách tài khóa đã được thể chế hóa thành các nhóm chính sách tài khóa lớn: đầu tư công, Thuế - phí, an sinh xã hội và quản lý nợ công.

Trong bối cảnh xuất khẩu, tiêu dùng trong nước chịu tác động nặng nề của cầu thế giới suy giảm, khả năng tài chính của người dân cho tiêu dùng hạn hẹp, khu vực doanh nghiệp gặp khó, đầu tư công trở thành động lực trung tâm thúc đẩy tăng trưởng trên các góc độ:
Trong bối cảnh nền kinh tế gặp khó khăn do hậu quả của đại dịch, kinh tế thế giới bất ổn, đầu tư công 5 năm 2021-2025 đạt tỷ lệ giải ngân cao tạo cú hích mạnh cho tổng cầu, lan tỏa tới khu vực tư nhân và khu vực FDI.
Nhiều ngành công nghiệp nền tảng được kích hoạt trở lại, tạo hàng triệu việc làm, tăng năng lực sản xuất và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Các tuyến cao tốc xuyên vùng khi hoàn thiện không chỉ giảm chi phí logistics mà còn định hình lại "bản đồ kinh tế" quốc gia, mở ra không gian phát triển mới cho miền Trung, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long.
Nhiệm kỳ 2021-2025, tổng vốn đầu tư công đạt khoảng 2,87 triệu tỷ đồng - mức cao nhất từ trước đến nay. Chính phủ tập trung vào hạ tầng chiến lược: Đường cao tốc Bắc - Nam giai đoạn 2, sân bay Long Thành, các tuyến vành đai ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, cùng hàng loạt dự án hạ tầng điện, logistics, hạ tầng số đã tạo nên một bước tiến vượt bậc trong phát triển hạ tầng - lĩnh vực được xem là "động lực vật chất" của tăng trưởng.
Nhiều cơ chế đặc thù được ban hành, như phân cấp mạnh cho địa phương, thành lập các tổ công tác, áp dụng cơ chế "không họp trên giấy". Nhờ vậy, tỷ lệ giải ngân các năm sau đều tăng, nhiều dự án về đích nhanh hơn kế hoạch.
Điển hình là dự án đường dây 500 kV mạch 3 Quảng Trạch - Phố Nối với sự tập trung nguồn lực, chỉ đạo với tinh thần trách nhiệm, đổi mới tư duy, phương pháp, cách tiếp cận so với cách làm trước đây nên thời gian triển khai dự án đã lập kỷ lục chưa từng có tiền lệ từ 3 đến 4 năm xuống còn 7 tháng.
Thành công của dự án minh chứng cho khả năng vượt qua mọi khó khăn khi có quyết tâm cao của hệ thống chính trị và sự đồng lòng của toàn dân.
Đầu tư công không chỉ trực tiếp thúc đẩy tổng cầu mà còn giữ vai trò nguồn lực dẫn dắt, tạo hiệu ứng lan tỏa, góp phần thu hút mạnh mẽ hơn dòng vốn đầu tư tư nhân vào hạ tầng, công nghiệp và dịch vụ.
Đầu tư công trở thành nhân tố quan trọng trong việc tăng cường liên kết vùng, hỗ trợ hoạt động sản xuất, kinh doanh và thúc đẩy phục hồi kinh tế nhanh, bền vững.

Chính sách thuế, phí: Giảm gánh nặng chi phí, tiếp sức cho doanh nghiệp
Trong bối cảnh doanh nghiệp chịu sức ép kép từ chi phí vốn tăng, đứt gãy chuỗi cung ứng, sức cầu suy giảm mạnh sau đại dịch, hệ thống chính sách thuế, phí giai đoạn 2021-2025 được triển khai theo hướng hỗ trợ tối đa cho sản xuất kinh doanh. Trọng tâm nằm ở việc giảm nghĩa vụ tài chính, giãn tiến độ nộp thuế, thu hẹp chi phí tuân thủ, tạo dư địa phục hồi cho doanh nghiệp.
Việc giảm VAT xuống 8% cho đa số nhóm hàng hóa, dịch vụ không chỉ góp phần trực tiếp giảm giá bán lẻ, kích thích tiêu dùng trong nước, mà còn hỗ trợ dòng tiền của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa đang thiếu thanh khoản.
Điều này góp phần giữ ổn định hoạt động sản xuất, hạn chế đứt gãy chuỗi cung ứng trong thời điểm kinh tế thế giới biến động mạnh.
Chính sách giãn, hoãn, miễn các khoản thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế tiêu thụ đặc biệt và tiền thuê đất giúp giảm áp lực tài chính, cho phép doanh nghiệp duy trì dòng tiền và tái cấu trúc hoạt động trong giai đoạn khó khăn.
Việc nhiều lần ban hành các quyết định gia hạn nộp thuế đã thể hiện sự linh hoạt và đồng hành của Chính phủ với cộng đồng doanh nghiệp, tạo sự chắc chắn về mặt chính sách ngay cả khi tình hình kinh tế còn nhiều bất định.
Việc điều chỉnh mức thu các loại phí, lệ phí theo hướng giảm hoặc miễn trong lĩnh vực vận tải, logistics, tài nguyên môi trường và đăng ký kinh doanh đã tạo điều kiện giảm chi phí đầu vào, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước.
Bên cạnh đó, các chương trình hiện đại hóa quản lý thuế, mở rộng khai thuế điện tử, hoàn thuế điện tử giúp giảm mạnh chi phí tuân thủ, rút ngắn thời gian và nâng cao tính minh bạch.
Nhiều chính sách hỗ trợ đặc thù được triển khai cho các ngành chịu ảnh hưởng nặng như hàng không, du lịch, dệt may, da giày, chế biến gỗ.
Những gói hỗ trợ này không chỉ giúp doanh nghiệp vượt qua giai đoạn suy giảm sâu mà còn duy trì nền tảng năng lực sản xuất, một yếu tố quan trọng để phục hồi nhanh khi nhu cầu của thị trường trở lại.
Nhìn tổng thể, chính sách thuế, phí thực thi trong nhiệm kỳ 2021-2025 góp phần quan trọng vào việc giảm gánh nặng tài chính, tháo gỡ khó khăn, nuôi dưỡng nguồn thu ngân sách trong dài hạn. Quan trọng hơn, các quyết sách kịp thời, nhất quán này đã củng cố niềm tin của doanh nghiệp vào môi trường kinh doanh, thể hiện tinh thần đồng hành của Nhà nước với cộng đồng doanh nghiệp, coi phục hồi sản xuất, kinh doanh là chìa khóa thúc đẩy tăng trưởng, ổn định vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội.

An sinh xã hội trong giai đoạn 2021-2025 được xem là trụ cột quan trọng bảo vệ người dân trước cú sốc đại dịch và sự suy giảm của kinh tế thế giới. Chính phủ triển khai đồng bộ các chính sách hỗ trợ nhằm duy trì sinh kế, bảo vệ các nhóm yếu thế, bảo đảm không ai bị bỏ lại phía sau, qua đó củng cố nền tảng ổn định xã hội và sức chống chịu của nền kinh tế.
Hệ thống chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người dân bị ảnh hưởng bởi đại dịch được triển khai nhanh chóng với quy mô chưa từng có. Gói hỗ trợ 62 nghìn tỷ đồng và các chính sách liên quan với hơn 43 triệu người dân và người lao động thụ hưởng.
Các gói hỗ trợ khẩn cấp cho người lao động mất việc, giảm việc, lao động tự do và hộ kinh doanh cá thể đã giúp giảm thiểu tác động tiêu cực, duy trì khả năng tiêu dùng của hàng chục triệu người dân.
Chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà, hỗ trợ người sử dụng lao động giữ chân lao động và các gói trợ cấp an sinh theo Nghị quyết của Chính phủ được triển khai với tinh thần khẩn trương, kịp thời.
Các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp được điều chỉnh linh hoạt, bao gồm: Tạm dừng đóng quỹ hưu trí, tử tuất, giảm mức đóng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và sử dụng kết dư quỹ bảo hiểm thất nghiệp để hỗ trợ người lao động.
Đây là giải pháp quan trọng giúp doanh nghiệp giảm chi phí nhân công trong bối cảnh khó khăn, đồng thời bảo đảm người lao động có điểm tựa khi mất việc hoặc giảm thu nhập.
Nguồn lực ngân sách được ưu tiên cho các chương trình giảm nghèo đa chiều, phát triển hạ tầng xã hội cơ bản như y tế, giáo dục và nước sạch. Qua đó, chất lượng dịch vụ an sinh được cải thiện, góp phần thu hẹp chênh lệch vùng miền và củng cố sự ổn định xã hội.
Các chính sách hỗ trợ thị trường lao động được triển khai đồng bộ, bao gồm đào tạo lại, đào tạo nâng cao kỹ năng cho người lao động nhằm thích ứng với yêu cầu mới trong bối cảnh phục hồi kinh tế và chuyển đổi số.
Điều này không chỉ giúp giải quyết việc làm trước mắt mà còn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực - yếu tố then chốt tăng năng lực cạnh tranh dài hạn.
Chính phủ tăng cường dự trữ quốc gia, bảo đảm cung ứng ổn định hàng hóa thiết yếu, bình ổn giá và kiểm soát chặt hoạt động thị trường.
Hệ thống y tế cơ sở được củng cố, nâng cao khả năng ứng phó với dịch bệnh, đầu tư cho năng lực xét nghiệm, tiêm chủng và trang thiết bị y tế.
Chính sách an sinh xã hội giai đoạn 2021-2025 đã góp phần quan trọng bảo vệ sức khỏe, sinh kế của người dân, tạo nền tảng xã hội cho phục hồi kinh tế. Những giải pháp đồng bộ, rộng khắp, kịp thời không chỉ giảm tác động tiêu cực của đại dịch mà còn tăng cường sức chống chịu của nền kinh tế trước các cú sốc bên ngoài.

Nợ công và cân đối ngân sách: Giữ vững an toàn tài chính quốc gia, tạo dư địa cho phục hồi và phát triển
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động mạnh, áp lực lạm phát tăng và nhu cầu chi ngân sách lớn chưa từng có để ứng phó dịch bệnh, ổn định kinh tế - xã hội, việc duy trì an toàn tài chính quốc gia trở thành yêu cầu xuyên suốt của nhiệm kỳ 2021-2025.
Với nguyên tắc chặt chẽ trong quản lý nợ công, điều hành thu - chi ngân sách chủ động, linh hoạt, thận trọng, Chính phủ đã bảo đảm các cân đối lớn, dư địa chính sách để ứng phó với biến động, tạo động lực cho tăng trưởng, giữ vững niềm tin của thị trường và các tổ chức quốc tế đối với nền tài chính quốc gia. Thể hiện qua các nội dung sau:
Mặc dù nhu cầu chi cho phòng, chống dịch và phục hồi kinh tế tăng cao, tỷ lệ nợ công luôn duy trì ở mức khoảng 37%-39% GDP, thấp hơn nhiều so với trần 60% Quốc hội cho phép.
Chiến lược vay nợ được triển khai theo hướng ưu tiên vốn vay dài hạn, lãi suất thấp, cơ cấu lại nợ theo hướng bền vững, kéo dài kỳ hạn và giảm áp lực trả nợ hằng năm.
Việc hạn chế tối đa vay ngắn hạn, vay thương mại kém ưu đãi giúp giảm rủi ro tài khóa và tăng khả năng chống chịu trước biến động thị trường tài chính quốc tế.
Chính phủ đẩy mạnh quản lý nợ theo thông lệ quốc tế, nâng cao xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam, qua đó giảm chi phí huy động vốn trong tương lai, tạo niềm tin cho nhà đầu tư.
Bên cạnh đó, việc tăng cường thanh tra, giám sát vay về cho vay lại, bảo lãnh Chính phủ giúp giảm thiểu rủi ro tiềm ẩn từ khu vực doanh nghiệp nhà nước.
Mặc dù thực hiện nhiều chính sách miễn, giảm, giãn, hoãn thuế để hỗ trợ doanh nghiệp, tổng thu ngân sách giai đoạn 2021-2025 vẫn duy trì mức tăng hợp lý.
Điều này có được nhờ mở rộng cơ sở thu, hiện đại hóa quản lý thuế, chống thất thu, chuyển giá, thu đúng, thu đủ các nguồn phát sinh từ kinh tế số, thương mại điện tử và các lĩnh vực mới.
Cơ cấu thu theo hướng bền vững hơn khi tăng tỷ trọng thu nội địa, giảm phụ thuộc vào thu từ dầu thô và hoạt động xuất nhập khẩu.
Nhiều khoản chi thường xuyên được rà soát, cắt giảm, chuyển sang hỗ trợ phát triển hạ tầng, y tế, giáo dục và an sinh xã hội.
Chính phủ đặc biệt ưu tiên chi đầu tư phát triển để thúc đẩy tăng trưởng dài hạn và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Việc đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong quản lý chi đầu tư công đã nâng cao tính chủ động và giảm thời gian thực hiện.
Bội chi ngân sách được kiểm soát trong phạm vi cho phép của Quốc hội, đồng thời bảo đảm nguồn lực cho các nhiệm vụ cấp bách như phục hồi kinh tế, hỗ trợ doanh nghiệp, ổn định thị trường lao động và bảo đảm an sinh xã hội.
Dự trữ tài khóa được củng cố, góp phần nâng cao khả năng ứng phó trước các cú sốc từ bên ngoài.
Việc triển khai ngân sách điện tử, hệ thống thông tin quản lý ngân sách và kho bạc giúp nâng cao hiệu quả điều hành, giảm thiểu rủi ro, tăng tính công khai và trách nhiệm giải trình.
Nhiệm kỳ 2021-2025 diễn ra trong bối cảnh đầy khó khăn và biến động nhất trong nhiều thập kỷ, song cũng là giai đoạn đánh dấu những nỗ lực mạnh mẽ, quyết liệt của Chính phủ trong điều hành tài khóa, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ phục hồi tăng trưởng.
Các chính sách tài khóa được triển khai đồng bộ, chủ động, linh hoạt, giúp củng cố niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp, người dân và thị trường quốc tế.
Cụ thể: Giữ vững ổn định vĩ mô, lạm phát kiểm soát phù hợp, tỷ giá ổn định, an ninh năng lượng và lương thực được bảo đảm; Hệ thống thuế, phí linh hoạt, hỗ trợ doanh nghiệp, giảm chi phí tài chính, nâng cao minh bạch và hiệu quả quản lý; Đầu tư công tạo hiệu ứng lan tỏa, thu hút đầu tư tư nhân, nâng cao năng lực kết nối và năng suất lao động; An sinh xã hội toàn diện, bảo vệ sinh kế người dân, ổn định lực lượng lao động và trật tự xã hội; Nợ công và ngân sách nhà nước quản lý chặt chẽ, bảo đảm an toàn tài chính quốc gia và dư địa chính sách; Thể chế tài chính, ngân sách hiện đại, minh bạch, số hóa và hiệu quả.

Thành tựu của công tác điều hành chính sách tài khóa nhiệm kỳ 2021-2025 có thể đúc kết dưới 5 nội dung quan trọng, nổi bật:
Một là, tài khóa đã trở thành trụ cột quan trọng giúp Việt Nam vượt qua giai đoạn khó khăn nhất, giữ vững ổn định vĩ mô, tạo dư địa cho phục hồi tăng trưởng.
Hai là, chính sách tài khóa không chỉ là giải pháp ứng phó ngắn hạn với khủng hoảng, mà còn đặt nền móng cho cải cách cơ cấu và phát triển bền vững trong tương lai.
Ba là, an toàn tài chính quốc gia tiếp tục được củng cố, bảo đảm khả năng chống chịu tốt hơn của nền kinh tế trước những biến động khó lường của kinh tế thế giới.
Bốn là, sự linh hoạt, chủ động, nhất quán trong điều hành chính sách tài khóa là yếu tố then chốt nuôi dưỡng niềm tin của doanh nghiệp, thị trường và người dân.
Năm là, nhiệm kỳ 2021-2025 khẳng định vai trò dẫn dắt của tài chính công trong ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy đầu tư, bảo đảm an sinh xã hội.
Mặc dù chính sách tài khóa giai đoạn 2021-2025 được đánh giá là đúng về mục tiêu, trúng về thời điểm và đối tượng nhưng kết quả thực thi chưa đạt được như kỳ vọng. Các hạn chế, tồn tại thể hiện trên sáu phương diện: Độ trễ và độ co giãn của chính sách khá lớn, hệ số hấp thụ vốn của nền kinh tế thấp; Thể chế thực thi chưa theo kịp tốc độ thiết kế chính sách; Năng lực tổ chức thực hiện ở địa phương và bộ ngành còn phân tán, thiếu tính chuyên nghiệp; Các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp dàn trải, chưa nhắm trúng nhóm doanh nghiệp có khả năng phục hồi; Đầu tư công vẫn là điểm nghẽn mang tính cấu trúc, hiệu quả thấp, chưa tạo hiệu ứng lan tỏa cao tới khu vực tư nhân, thất thoát, lãng phí trong đầu tư công còn rất lớn.
Hiện nay cả nước có 2.981 dự án tồn đọng, kéo dài nhiều năm, với tổng số vốn khoảng 5,9 triệu tỷ đồng, tương đương với 51,3% GDP của năm 2024 đang bị lãng phí.
Các dự án tồn đọng, liên quan các vướng mắc về pháp lý, liên quan quản lý, sử dụng đất đai, quy hoạch; Kỷ luật tài khóa chưa thật sự nghiêm, một số địa phương chi thường xuyên còn vượt trần, thu ngân sách phụ thuộc quá nhiều vào đất đai và thu từ dầu thô, cải cách quản lý thuế tuy mạnh về mục tiêu nhưng yếu về thực thi, dẫn đến thất thu, chuyển giá, trốn thuế vẫn tồn tại.
Thiết nghĩ, bước vào kỷ nguyên phát triển mới, chính sách tài khóa cần phải tiếp tục được cải cách toàn diện dựa trên bốn yếu tố trụ cột, đó là: Xây dựng khung tài khóa trung hạn hiện đại, linh hoạt, thực hiện kỷ luật tài khóa, đồng thời thiết lập cơ chế đánh giá độc lập tác động tài khóa và hiệu quả chi tiêu; Cải cách hệ thống thuế theo hướng công bằng, hiệu quả, mở rộng cơ sở thuế, nâng cao năng lực quản lý thuế, tăng tính tuân thủ tự nguyện; Cơ cấu lại chi tiêu công, tập trung cho đầu tư chất lượng cao, giảm chi thường xuyên, cắt bỏ các khoản chi không hiệu quả, tăng chi cho đổi mới sáng tạo, hạ tầng chuyển đổi năng lượng, giáo dục, y tế. Triển khai ngân sách theo kết quả đầu ra, tăng cường giám sát xã hội và trách nhiệm giải trình; Phát triển tài khóa xanh, tài khóa bao trùm, tài khóa số.
Trong giai đoạn phát triển mới, khi nền kinh tế cần tạo ra đột phá về chất thay vì mở rộng theo chiều rộng, chính sách tài khóa không chỉ là công cụ ổn định kinh tế vĩ mô mà phải trở thành động lực của cải cách thể chế và tái cấu trúc mô hình tăng trưởng. Để làm được điều đó, cải thiện khâu thực thi chính sách là yêu cầu tiên quyết. Trước hết, Chính phủ cần khắc phục những điểm nghẽn đã bộc lộ trong nhiệm kỳ 2021-2025 qua các nhóm giải pháp:
Một là, xây dựng mô hình điều phối chính sách tài khóa thống nhất, có trách nhiệm giải trình cao, hướng tới mục tiêu rút ngắn độ trễ chính sách, giảm tình trạng mỗi bộ, ngành "mỗi luật xử một kiểu".
Hai là, chuẩn hóa quy trình ban hành và hướng dẫn chính sách, giảm tối đa thủ tục cấp trung gian với cơ chế "một văn bản hướng dẫn đầy đủ" cho một nghị quyết tài khóa quan trọng, bảo đảm chính sách đến đúng thời điểm, không để tồn tại "khoảng trống pháp lý" giữa ban hành chính sách và triển khai thực thi chính sách.
Ba là, tăng minh bạch, giảm chi phí tuân thủ, bảo đảm kỷ luật tài khoá bền vững. Thực hiện số hóa toàn diện trong quản lý thu - chi ngân sách và đầu tư công. Tất cả hồ sơ đầu tư công, đấu thầu, giải ngân phải được xử lý trên nền tảng số duy nhất.
Bốn là, thiết lập cơ chế đánh giá, xếp hạng và thưởng - phạt theo kết quả thực thi. Xóa bỏ căn bệnh "sợ sai, sợ trách nhiệm" đang làm tê liệt nhiều khâu quan trọng. Có chế tài mạnh để xử lý tình trạng né tránh, đùn đẩy trách nhiệm.
Năm là, cải cách triệt để chính sách thuế theo hướng mở rộng cơ sở thu và nâng cao tính công bằng. Tạo nguồn thu bền vững, nâng cao sức cạnh tranh và tái cấu trúc cơ cấu thu theo hướng hiện đại. Tăng ưu đãi thuế có điều kiện cho doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, kinh tế số, công nghệ cao.
Sáu là, cải tổ toàn diện đầu tư công theo hướng hiệu quả, tập trung, dẫn dắt. Biến đầu tư công thành "đòn bẩy chiến lược" thay vì trở thành "điểm nghẽn cấu trúc". Chỉ triển khai các dự án thực sự thiết yếu; kiên quyết loại bỏ dự án hiệu quả thấp.
Bảy là, chính sách tài khóa hướng tới tính bao trùm và khả năng chống chịu của nền kinh tế, bảo vệ đời sống người dân trước biến động. Phát triển thị trường tài chính, trái phiếu chính phủ bền vững để đa dạng hóa nguồn lực.
Tám là, tăng tính liên kết giữa chính sách tài khóa và chiến lược phát triển dài hạn, đưa tài khóa trở thành công cụ định hình mô hình tăng trưởng mới. Chính sách tài khóa đi trước một bước trong thực hiện chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, kinh tế tri thức. Đảm bảo các khoản chi ngân sách ưu tiên cho khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số hạ tầng.
Chính sách tài khóa giai đoạn 2021-2025 đã minh chứng bản lĩnh của một nền quản trị hiện đại với kiên định mục tiêu ổn định, chủ động ứng phó cú sốc, linh hoạt trong điều hành và quyết liệt trong hỗ trợ phục hồi. Trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động, bất cập, khó lường, chính sách tài khóa Việt Nam không chỉ đóng vai trò nền tảng ổn định mà còn trở thành động lực dẫn dắt quá trình phục hồi và tái cấu trúc nền kinh tế.
Tuy còn những hạn chế trong phối hợp chính sách, tiến độ giải ngân, chất lượng thực thi và năng lực dự báo, nhưng chính những hạn chế đó đã chỉ ra yêu cầu cấp thiết của thời kỳ mới chuyển từ tư duy ứng phó sang tư duy chủ động kiến tạo; chuyển từ mở rộng nguồn lực sang tối ưu hóa nguồn lực; chuyển từ điều hành theo kinh nghiệm sang điều hành dựa trên dữ liệu và công nghệ.
Bước vào kỷ nguyên mới của kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tri thức, chính sách tài khóa cần tiếp tục đổi mới tư duy, tăng cường kỷ luật, mở rộng dư địa, nâng cao tính minh bạch và khả năng dẫn dắt. Cần tạo dựng một nền tài khóa hiện đại, cùng với chính sách tiền tệ thực hiện vai trò trụ cột ổn định vĩ mô; kiến tạo động lực thúc đẩy đổi mới sáng tạo; làm đòn bẩy thu hút nguồn lực xã hội; tạo dựng hạ tầng chính sách cho phát triển dài hạn.
Với tinh thần đó, tài khóa Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới với vị thế mới và niềm tin mới, vững vàng hơn trước biến động, chủ động hơn trong kiến tạo tăng trưởng, quyết tâm hơn trong mục tiêu xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, hội nhập sâu rộng và phát triển bền vững./.
Nguyễn Bích Lâm
Nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê