Tại dự thảo Tờ trình Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về trình tự cử tri bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân, Bộ Nội vụ xin ý kiến Chính phủ về 02 phương án quy định tại Khoản 4 Điều 24 (Biên bản xác định kết quả bỏ phiếu bãi nhiệm) của dự thảo Nghị quyết, cụ thể như sau:
Phương án 1: Đại biểu Hội đồng nhân dân bị bãi nhiệm khi có ít nhất hai phần ba tổng số phiếu hợp lệ của cử tri ở đơn vị bãi nhiệm đồng ý bãi nhiệm.
Phương án 2: Đại biểu Hội đồng nhân dân bị bãi nhiệm khi có quá nửa tổng số phiếu hợp lệ của cử tri ở đơn vị bãi nhiệm đồng ý bãi nhiệm.
Căn cứ việc đại biểu Hội đồng nhân dân bị Hội đồng nhân dân bãi nhiệm khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân biểu quyết tán thành quy định tại Khoản 3 Điều 104 Luật Tổ chức chính quyền địa phương; đồng thời, do việc bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân là vấn đề hệ trọng liên quan đến quyền và trách nhiệm của đại biểu Hội đồng nhân dân được tiến hành tại đơn vị bầu cử nơi đại biểu được bầu hoặc nơi đại biểu đến sinh hoạt, vì vậy Bộ Nội vụ đề nghị lựa chọn phương án 1.
Dự thảo Nghị quyết về trình tự cử tri bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân đề xuất quy định xác nhận và công bố kết quả bỏ phiếu bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân
Cụ thể, trên cơ sở Biên bản kết quả bỏ phiếu bãi nhiệm do Ban tổ chức bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân gửi đến, Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp ban hành Nghị quyết xác nhận kết quả bỏ phiếu bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân, công bố Nghị quyết trên các phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương và báo cáo Hội đồng nhân dân tại kỳ họp gần nhất.
Đại biểu Hội đồng nhân dân bị đưa ra cử tri bãi nhiệm chấm dứt nhiệm vụ đại biểu Hội đồng nhân dân kể từ thời điểm Nghị quyết của Thường trực Hội đồng nhân dân xác nhận kết quả bỏ phiếu bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân có hiệu lực thi hành.
Trường hợp cuộc bỏ phiếu có vi phạm pháp luật nghiêm trọng thì Thường trực Hội đồng nhân dân tự mình hoặc theo đề nghị của Ủy ban nhân dân, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban tổ chức bãi nhiệm cùng cấp hủy bỏ kết quả cuộc bỏ phiếu và quyết định ngày bỏ phiếu lại ở khu vực bỏ phiếu, đơn vị bỏ phiếu đó.
Trường hợp bỏ phiếu lại thì ngày bỏ phiếu được tiến hành chậm nhất là 15 ngày sau ngày bỏ phiếu đầu tiên.